Sunday, November 12, 2017

 





AI GÂY RA NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945





Written By Kelvin Tran on Tuesday, March 31, 2015 | 5:16 PM








TRẬN ĐÓI THÁNG BA NĂM ẤT DẬU 1945

GS PHẠM CAO DƯƠNG

Ðây là trận đói thê thảm nhất và khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam với hàng triệu người đã bị bỏ mạng, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân chính đã đưa tới biến cố 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, và tình trạng hiện thời của một nước Việt Nam lẽ ra ra đã có tự do, dân chủ và tiến bộ từ bảy mươi năm trước.


Ðây cũng là một trang sử mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc, tìm hiểu và ghi nhớ. Không đọc, không hiểu và không ghi nhớ trang sử này người ta sẽ không hiểu được bản chất của Cách Mạng Tháng Tám và biến cố Việt Minh cướp chính quyền sau đó. Những câu hỏi cần được đặt ra là do đâu có nạn đói này? Nạn đói đã diễn ra như thế nào và được người Việt đương thời kể lại ra sao? và Cộng Sản Việt Minh đã thực sự làm gì trước tình cảnh thê thảm của đồng bào ta thời đó?

   Do đâu có trận đói này?

Xảy ra dưới thời Vua Bảo Ðại và chính phủ Trần Trọng Kim nhưng thực sự trận đói này đã có nguồn gốc từ lâu trước đó còn chính phủ Trần Trọng Kim, một cách oan khuất, đã phải lãnh chịu tất cả mọi hậu quả, nhất là bị trách cứ là tay sai của Nhật, là bất lực. Trong khi đó thì Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản đã lợi dụng cơ hội tuyên truyền, sách động quần chúng, cướp chính quyền khi Nhật Bản đầu hàng Mỹ.

Nói rằng trận đói này có nguồn gốc từ lâu là vì đồng bằng Bắc Kỳ và ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh dân số vốn dĩ đã đông, lại tăng thêm nhiều trong những năm cuối thập niên 1930 đầu thập niên 1940 trong khi diện tích canh tác lúa gạo hầu như không thay đổi, kỹ thuật sản xuất cho tới thời điểm này vẫn còn lạc hậu, sản lượng lúa gạo trong những năm bình thường chỉ vừa đủ cho người dân sống dưới khẩu phần trung bình cần thiết cho mỗi cá nhân. Ngô, khoai, sắn, đậu... phải được dùng để ăn độn thêm; nhiều khi những thứ này không còn đủ, họ phải ăn cám.

Tại sao lại phải ăn độn thêm? Ta có thể giải thích dựa theo những con số do Y. Henry và De Visme cung cấp. Theo hai ông này, nếu khẩu phần trung bình cần thiết cho một người trong một năm là 337 kg thóc, tương xứng với 223 kg gạo thì người nông dân Việt Nam trong suốt thời kỳ Pháp thuộc không bao giờ có được khẩu phần này. Ngay từ năm 1900 con số đã giảm xuống còn 262 kg, năm 1913 còn 226 kg, và đến năm 1937 còn 182 kg. Ðây chỉ là những con số tính chung cho toàn cõi Ðông Pháp. Ở những nơi đông dân như Bắc Kỳ và miền Bắc Trung Kỳ, tình trạng thiếu ăn này còn trầm trọng hơn nhiều. Khoảng năm 1937, khẩu phần trung bình ở Bắc Kỳ chỉ có 217 kg thóc, tương đương với 143.5 kg gạo và ở Trung Kỳ là 223 kg thóc hay 154 kg gạo một năm.(1) Về phía người Việt Nam, Nghiêm Xuân Yêm, một chuyên gia nông nghiệp tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Nông Lâm đương thời, sau này là bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong các thập niên 1950, 1960, trong một bài viết đăng trên tờ Thanh Nghị, số 107, ra ngày 5 Tháng Năm 1945, nhan đề “Nạn Dân Ðói, Một Vài Nhận Xét và Thiển Kiến Về Vấn đề Thóc Gạo” cũng đưa ra nhận xét tương tự. Ông viết:

“Toàn xứ chỉ có ba tỉnh dưới đây là đại khái có thóc gạo vừa vặn đủ ăn không thừa để bán sang địa hạt tỉnh khác và cũng không phải đong thêm ở các tỉnh lân cận nào:

1) Bắc Ninh sản xuất: 800,000 tạ thóc, dân số: 480,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 192 kg thóc.

2) Phú Thọ sản xuất: 494,000 tạ thóc, dân số: 203,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 187 kg thóc.

3) Sơn Tây sản xuất 528,000 tạ thóc, dân số: 270,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 195 kg thóc.

Trung bình, cả ba tỉnh, mỗi người dân 191 kg thóc một năm, vào khoảng 840grs gạo một ngày. Sở dĩ dân ba tỉnh ấy đủ no với số gạo 840 grs một ngày là vì ba tỉnh ấy trồng trọt được nhiều hoa mầu ngô, khoai, sắn... Còn các tỉnh khác đều kém ruộng trồng mầu cả. Vậy nếu ta căn cứ vào ba tỉnh đủ ăn ấy, ta nhận thấy rằng: dù kể cả ngô khoai, sắn ăn lẫn với gạo thì theo sức sản xuất của mọi trồng trọt, mỗi người dân xứ ta vẫn còn cần phải được ít ra 191 kg thóc. Nghĩa là nếu ở toàn xứ, mọi sự trồng trọt hoa mầu dầu được tương tự bằng ở 3 tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Sơn Tây để có thể có đủ thức ăn độn thì dân cũng cần phải có tới 17,000,000 tạ thóc để ăn. Tóm lại đổ đồng hàng năm ta vẫn còn thiếu mất: 17,000,000 - 14,500,000 = 2,500,000 tạ thóc. Nhưng sự thực dân ta vẫn còn bị thiếu hơn vì các tỉnh khác có trồng được ngô khoai tương tự bằng 3 tỉnh kể trên đâu. Vậy ta có thể quả quyết nói rằng mỗi năm xứ Bắc này thiếu mất 3,000,000 tạ thóc là ít.
“Tôi xin nhắc lại rằng vì trong quá nửa nồi cơm của dân quê ta có trộn ngô khoai nên trên đây chúng ta mới tính thấy dân chỉ thiếu có ngần ấy thóc, chứ tôi chắc ai ai cũng biết rằng ăn độn ngô, khoai là một việc bất đắc dĩ. Vì ở các nước ngoài, những thứ kể trên thường chỉ dành riêng cho ngựa, bò hay lợn ăn thôi và gượng gạo dân quê ta thực trạng vẫn sống không bằng đàn gia súc của người ngoài. Bởi vì bình thường dân ta cũng đã thiếu ăn như thế nên hễ rủi gặp trận bão lụt... ắt nạn đói bùng lên nhất là từ hồi người Pháp mượn cớ chiến tranh lập ra chính sách thu thóc một cách tàn ác thái quá thì ròng rã mấy năm nay nông dân mỗi ngày một lâm vào cảnh cơ cực cùng quẫn và đến nỗi ở khắp đồng nội, thành thị ngày nay mới thấy những thảm trạng thây chết nằm ngổn ngang và người sống vất vưởng nheo nhóc như những hồn ma xuất hiện. Hàng triệu sinh linh ngày nay tranh ăn hết phần của súc vật. Cám, bã đậu phụ, rau chuối, củ chuối... là những thức ăn của lợn. Bây giờ dân ăn cơm độn với cám, ăn bánh đúc cám và cháo cám. Củ chuối ở Trung châu bị đào, ngoáy lên chừng sắp hết nên có người đã buôn củ chuối từ Trung du về xuôi với cái giá $150 một tạ. Vì người ta tranh ăn hết phần của chúng, nên lợn, chó, gà, vịt đều phải chết, và thịt thà trở nên một ngày một khan.”.


Riêng chuyện ăn cám đã được nhà văn Lãng Nhân ghi trong một bài viết đăng trong Ðông Dương Tạp Chí, ngày 13 tháng 11 năm 1937, nhan đề “Lời Người Bán Cám” nguyên văn như sau:
“Trong mấy năm nay, từ khi xảy ra nạn kinh tế đến giờ, chúng tôi buôn cám thật chạy tay. Những người đến mua không phải là mua về cho lợn, họ mua về để ăn. Gạo đắt quá, ngô khoai cũng đắt, nhiều người nhà quê phải đành ăn cám. Miễn là đầy bụng thì thôi. Mà ông lại nên biết rằng ăn cám cũng chia làm ba hạng người: Một hạng kiếm được dăm ba xu một ngày, mua cám về nấu lên với rau mà ăn, như lối ăn của lợn nhà giàu. Hạng nữa kiếm được hai ba xu một ngày chỉ trộn cám với nước lã rồi ăn như lối ăn của lợn nhà nghèo. Còn hạng thứ ba là gồm có những người như ông vừa thấy đó, nghĩa là những người không kiếm được xu nào cả, ngày hai buổi đi ngang qua dãy hàng cám, dừng lại mỗi nhà một lúc, mặc cả một đôi câu rồi vốc lấy ít cám bỏ mồm làm như để nếm. Cứ thế vừa đi hết dãy là no.

“Ở thành Nam là nơi không lụt lội mà còn bao nhiêu người ăn cám, không biết ở nơi bèo trôi sóng vỗ người ta được ăn những gì? “Xét ra người nhà quê phần nhiều phải ăn cám cũng là lẽ tất nhiên. Ði gặt hái một ngày chỉ kiếm được ba xu, khi không phải mùa gặt hái thì đi đánh giậm, một buổi khéo lắm được mười xóc cua, đem bán ba xu. Ba xu mà nuôi cha già, con dại, ba xu mà vợ đẻ con sài, ba xu mà đóng góp với làng, thật là ăn cám cũng không xong. Nào có được đâu một ‘số lương ít nhất’ như thợ thuyền. Nào có được như thợ thuyền làm có giờ, chơi có buổi! Lại cũng không họp được đoàn thể mà yêu cầu, không đình công được mà phản kháng. Quan bắt đi đê thì phải bỏ hết mà ra đê, có ‘cụ’ nào về kinh lý thì lại phải đẵn tre, vác cờ đi hàng chục cây số để bày hương án, kết cổng chào, tỏ lòng khuất phục! Bấy nhiêu việc đều là không công.”


Cho tới nay, vì thiếu những thống kê chính xác, ta không biết chính xác con số các nạn nhân của Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 là bao nhiêu. Một triệu, hai triệu, hơn nữa hay ít hơn.

Chuyện Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, lợi dụng nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu, xúi giục các nông dân vô tội nổi loạn cướp phá các kho thóc gạo rồi sau đó theo đảng này cướp chính quyền với những hứa hẹn chia ruộng đất và không còn phải đóng thuế nữa là một điều dễ hiểu. Ðiều đáng tiếc là người chết không còn sống lại để thấy hiện trạng của đất nước Việt Nam 70 năm sau đó như thế nào.

Oan hồn của những nạn nhân kể trên, khởi đầu là hai triệu nạn nhâncủa Nạn Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945, sau 70 năm đã được giải thoát hay chưa? Ðã có ai hàng năm lập đàn tràng để giải oan cho họ chưa?

Tình trạng bấp bênh, trên bờ vực của đói kém này dễ trở thành trầm trọng hơn khi có những đại nạn bất ngờ xảy ra như hạn hán, lụt lội, bão táp,(3) côn trùng... phá hại mùa màng hay giặc giã cướp phá trong đó có sự cướp phá các kho thóc của Việt Minh, làm mất an ninh. Tất cả những tác tố này đã xảy ra từ những năm trước năm 1945 và đã trở thành trầm trọng hơn với sự bùng nổ của Thế Chiến Thứ Hai và sự hiện diện của quân đội Nhật. Nhu cầu tiêu thụ của quân đội Nhật, sự cưỡng bách người dân nộp và tích trữ gạo của cả người Nhật lẫn người Pháp, việc người Nhật ép buộc người dân phải bỏ ruộng trồng lúa để trồng đay, trồng thầu dầu hay đậu phọng và sản xuất thêm rượu do nhu cầu của chiến tranh, nạn máy bay Mỹ oanh tạc đường biển và đường xe lửa Bắc-Nam hàng ngày khiến gạo từ miền Nam không chở ra để tiếp tế cho miền Bắc như trong những năm bình thường(4), nạn lũng đoạn của gian thương, nhất là gian thương người Tàu là những nguyên nhân chính yếu đã được ghi nhận, đặc biệt là từ sau năm 1943.

    Diễn tiến và thảm cảnh của trận đói

Bắt đầu từ mùa Ðông năm 1944 nạn đói đã lan rộng và trở nên mỗi ngày một trầm trọng hơn. Từ miền quê nạn khan hiếm gạo đã lan đến các thành thị và luôn cả thủ đô Hà Nội. Ðoàn Thêm, một công chức trẻ của Phủ Toàn Quyền đương thời, một trong số rất nhiều nhân chứng sống đã ghi lại hiện tượng này ở ngay Hà Nội như sau: “Từ Tháng Chạp (1944) không thấy bóng chị hàng sáo quen vẫn quảy gạo trắng từ ngoại-ô vào Hà-nội bán cho gia đình tôi; nghe nói thôn-quê không còn dư để cung cấp cho thành-phố nữa. Nên người nhà tôi phải đi đong gạo tiếp-tế vừa đỏ vừa rắn, lại phải mang thẻ phân phối đứng nối đuôi dài trước tiệm buôn lẻ và chầu chực hàng giờ; có khi đợi lâu quá, đành trả một vài hào (cắc) cho người đến trước để được nhường chỗ. Chỗ đứng cũng bị đầu-cơ do những kẻ chuyên đi choán sớm để buộc người nóng ruột bỏ tiền ra mua quyền ưu-tiên.”(5) Nhưng đó chỉ là buổi đầu, sau đó là dân quê rủ nhau tới các thành phố để kiếm ăn, vì tưởng ở đây thừa gạo dự trữ để cứu trợ, cũng theo lời kể của Ðoàn Thêm:
“Các hội thiện phải lập những trại tạm-trú ở quanh thành phố, như tại xã Giáp-nhất, Giáp-nhì, Giáp-bát, bãi cát Phúc-xá bên sông Nhị-hà: hàng ngàn người cầu thực được chứa tại đó, và cấp cháo nấu bằng gạo lạc-quyên. Nhưng số người cứ tăng mãi, cứu tế làm sao cho đủ? Bao hành khất hốc-hác như bộ xương ma, được đồng tiền không lấy, chỉ xin cơm. Một ông già đã quá đuối sức vừa nhận nắm xôi chưa kịp bỏ vào mồm, đã lăn ra tắt thở. Nhiều thây gục chết ở đầu hè, góc chợ, được chở ra nhà xác thủ-đô. Ở nhiều vùng dân chết cả nhà, cả xóm, hay gần cả làng. Hết gạo, hết khoai, hết chó mèo, hết chim, hết chuột, hết củ chuối, người ta làm thịt... con nít. Sự thảm khốc này dĩ nhiên là khó tin. Nhưng tới năm 1947, nhân dịp chạy tản cư về hạt Xuân-trường tỉnh Nam Ðịnh, tôi đã có lần bước vào một ngôi nhà trống. Hỏi vì sao nơi đây hoang vắng, thì được mách rằng không ai dám đến ở, vì cả gia đình khổ-chủ đã chết từ năm 1945 sau khi nấu một đứa con nhỏ làm món nhựa mận ăn cho đỡ đói.”(6)

Chưa hết, bên cạnh cái đói là cái rét. Chưa bao giờ miền Bắc lại rét như vậy. Ngày Tết Nguyên Ðán năm Ất Dậu (13 tháng 2, 1945) nhiệt độ được ghi nhận là 4 độ ở Hà Nội.(7) Ngay cả Văn Cao, tác giả của bài Tiến Quân Ca, nhạc phẩm sau này trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và tiếp theo là của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông cũng là tác giả của rất nhiều bài hát trữ tình nổi tiếng nhất Việt Nam đương thời và sau này, cũng đã là nạn nhân của cả hai nạn đói và rét này. Người nhạc sĩ được nhiều người kính trọng và yêu mến đã kể lại hoàn cảnh của chính ông như sau:
“Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Ðêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu...”(8) với những gì ông nhìn thấy ở Hà Nội, chung quanh ông: Bên một gốc cây bóng những người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái vỏ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mặt. "Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Ðôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh giẻ che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong số người chết dọc đường Nam Ðịnh-Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Tin từ Nam Ðịnh lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến.”(9) Chính trong hoàn cảnh bi đát này, Vũ Quí, một cán bộ Cộng Sản, vốn đã theo dõi hoạt động của Văn Cao từ lâu, đã xuất hiện, đưa Văn Cao vào một tiệm ăn và người nhạc sĩ này đã nhận, thoát ly rồi gia nhập Việt Minh, sáng tác bài Tiến Quân Ca và tham gia Ðội Danh Dự, ám sát Ðỗ Ðức Phin... như sẽ được trình bày trong một bài sau.
Không hiểu và không ghi nhớ trang sử nạn đói ẤT DẬU này người ta sẽ không hiểu được bản chất của Cách Mạng Tháng Tám và biến cố Việt Minh cướp chính quyền sau đó.
Cũng trong năm 1945 này, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, ngày 8 tháng 4, đã ghi trong nhật ký của ông khi ông lên thăm Tô Hoài và Nam Cao như sau: “Dọc đường toàn những cảnh đói. Tiếng khóc như đám ma. Những bà cụ mếu máo, những trẻ trần truồng rúc đầu góc tường, hay nằm trong chiếu, những đôi bố con cũng trần truồng nằm vệ đường, những thây chết cong queo, những cái thai trong bụng mẹ, giơ tay một cách dọa nạt. Muốn chụp ảnh,”(10) rồi non một tháng sau, ngày 12 tháng 5, Nguyễn Huy Tưởng ghi thêm:
"Nhiều cảnh ăn thịt người. Cảm thấy như mang lỗi khi làm tiểu thuyết giữa lúc số phận đất nước đang nguy ngập chưa biết định đoạt ra sao”.(11)

Vũ Ðình Hòe, một trong năm người sáng lập và chủ trương tờ Thanh Nghị đã nói ở trên cũng cho biết: “Các báo hàng ngày luôn luôn phản ảnh bức tranh vô cùng ảm đạm của cảnh chết đói đầy đường ở nông thôn các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Từng bọn người rách rưới, thân hình khô đét, đen thủi; vợ chồng con cái dắt díu đi ăn xin ở đường phố Hà Nội, hoặc lê la vào các chợ nhặt lá bánh từ các đống rác đầy ruồi nhặng. Xe bò của các hội từ thiện mỗi buổi sáng đi nhặt xác chết, sau khi đã phân phát hết những nắm cơn nhão, những bát cháo loãng chở trên xe cho những người còn lết đi được hoặc còn thoi thóp.”(12)

Ðói từ đó đã trở thành đề tài cho văn chương, thi ca và âm nhạc của Việt Nam đương thời và sau này, điển hình là nhạc sĩ Ngọc Bích với bài hát Con Ðò Ðưa Xác, Bàng Bá Lân với bài thơ Ðói...

Con số nạn nhân được hầu hết mọi người nói tới là hai triệu. Hai triệu trong số non 10 triệu người bị coi là một con số khủng khiếp vì nó tương đương với 20% dân số của miền Bắc và của hai tỉnh Thanh-Nghệ đương thời. Con số này, tuy nhiên bị nhiều người trong đó có sử gia Mỹ David G. Marr và sử gia Na Uy Stein Tonnesson cho là phóng đại bởi những nhà tuyên truyền Việt Minh. Ngay Hồ Chí Minh trong bản Tuyên Ngôn Ðộc lập của ông cũng đưa ra không những con số hai triệu mà còn “hơn” hai triệu. Thực sự người ta không biết con số nạn nhân là bao nhiêu vì thống kê chính xác và đầy đủ cho tới nay vẫn chưa tìm ra được nếu không nói là không có. Các quan lại cai trị địa phương do hoàn cảnh vô cùng nhiễu nhương, giao thông trở ngại, khó mà làm chủ được tình hình. Những con số người ta có được chỉ là vụn vặt của một số phủ, huyện, tỉnh gửi về Phủ Khâm Sai Bắc Bộ chứ không phải của toàn thể các tỉnh miền Bắc, chưa kể Thanh Hóa và Nghệ An. David G. Marr cho rằng con số đáng tin cậy hơn là một triệu, con số theo ông đã khủng khiếp lắm rồi vì nó tương đương với mười phần trăm dân số trong vùng cho một thời gian ngắn ngủi, vỏn vẹn có năm tháng. Sử gia này cũng viện dẫn những con số trích trong tài liệu dùng cho các viên chức của chính phủ Hồ Chí Minh thời đó như một triệu người ở miền Bắc và ba trăm ngàn ở miền Trung. Còn Stein Tonesson thì ước lượng thấp hơn, từ nửa triệu đến một triệu.(13)

Các sử gia khác như Philippe Devillers thì con số là gần một triệu,(14) Joseph Buttinger là từ một triệu đến hai triệu, còn dẫn theo Toàn Quyền Jean Decoux, là một triệu.(15) Sau này Fredrik Logeval, dẫn theo tài liệu của nhà cầm quyền đương thời, có lẽ là thời chính phủ Trần Trọng Kim, vào tháng 5 năm 1945,(16) vào lúc nạn đói đã giảm bớt là 380,969 cho miền đồng bằng Bắc Kỳ, và sau một năm với các dữ liệu đầy đủ hơn là một triệu người cho miền Bắc và khoảng 300,000 cho miền Bắc Trung Kỳ. Trong những năm sau nữa con số leo lên tới hai triệu người cho khoảng thời gian là năm tháng của năm 1945. Trước đó sử gia Alexander B. Woodside đã đưa ra một biên độ lớn hơn là từ 400,000 đến 2 triệu cho hai năm 1944-1945.(17)

Có điều con số hai triệu hay hơn hai triệu đã trở thành chính thức được công bố và được ghi trong sử sách của chính quyền Việt Minh thời đó, coi như tội ác gây ra bởi Thực Dân Pháp và Phát Xít Nhật, một mục tiêu tuyên truyền nhằm thúc đẩy quần chúng nổi lên chống lại không chỉ hai thế lực thống trị Việt Nam thời đó mà luôn cả chính quyền Bảo Ðại - Trần Trọng Kim sau này, một chính quyền bị Việt Minh tuyên truyền là bù nhìn, là Việt gian, tay sai của cả Pháp lẫn Nhật, tuyên truyền để dân chúng nổi lên giúp họ cướp chính quyền ngày 19 tháng 8 sau đó.(18) Thuật vận động của tổ chức này là: “bám vào nạn đói kém, chính sách thu thóc, thu hạt dầu mà gây lòng phẫn uất của nhân dân, làm cho họ giác ngộ Nhật không giải phóng cho ta đâu, do đó đưa nhân dân ra đường tranh đấu...”(19) Tất cả là nhằm vào mục tiêu chính yếu là cướp chính quyền như họ sẽ thực hiện về sau này, kể cả sau khi Nhật Bản đã đầu hàng Mỹ và chính quyền Bảo Ðại - Trần Trọng Kim đã đương nhiên trở thành hoàn toàn độc lập.

    Chính phủ Trần Trọng Kim và công tác cứu trợ

Cứu đói và luôn cả cứu rét do đó là hai công tác vô cùng khẩn cấp mà chính phủ Trần Trọng Kim phải làm và được mọi người trông đợi phải làm ngay từ khi mới được thành lập vì, như đã nói ở trên, nạn đói đã lên đến cực điểm vào tháng 3 năm đó đúng như tên nó được gọi: Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu và vì “Tháng Ba bà già chết rét.” Hành động đầu tiên của chính phủ này là yêu cầu người Nhật bãi bỏ sự cưỡng bách bán gạo của họ ở miền Trung và miễn bán cho những ai có dưới ba mẫu ruộng ở miền Bắc. Lý do là vì sự cưỡng bách này đã làm cho gạo trở thành khan hiếm có tiền cũng không mua được, kể cả trường hợp của các tổ chức cứu trợ. Mặt khác, một Ủy Ban Trung Ương Tiếp Trợ Nạn Nhân Miền Bắc do Từ Cung Hoàng Thái Hậu, thân mẫu của Hoàng Ðế Bảo Ðại làm chủ tịch danh dự, Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế Hồ Tá Khanh, làm phó chủ tịch, trụ sở đặt ở số 43 đường Paul Bet, Hà Nội.(20)

Tiếp theo, ngày 7 tháng 6, Khâm Sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra nghị định bãi lệ nộp thóc cho chánh quyền, đồng thời cấm tích trữ quá hai tấn thóc hoặc một tấn gạo, cho hàng sáo chuyên chở và bán gạo tự do, giá thóc cũng được ấn định từ $100 đến $130 mỗi tạ, giá gạo từ $150 đến $225 mỗi tạ, so với giá gạo chợ đen ở Hà Nội hồi tháng 5 trước đó là $600 một tạ gạo xấu, $800 một tạ gạo tốt.(21) Mặt khác, ngày 14 tháng 6, Bộ Trưởng Bộ Tiếp Tế Nguyễn Hữu Thí được đặc phái vào Saigon thu xếp việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc và việc di cư một triệu dân từ Bắc bộ và Trung Bộ vô Nam.(22) Ðây không phải là một việc làm dễ dàng vì cả ba đường xe lửa, đường bộ và đường biển đều bị không quân Mỹ thường xuyên oanh tạc. Người ta đã phải dùng các hải cảng nhỏ khác thay vì Saigon và các thuyền mành của tư nhân để chuyên chở thóc gạo ra Bắc.

   Việt Minh và các cuộc cướp phá các kho thóc gạo

Nỗ lực đem gạo từ Nam ra Bắc tuy nhiên đã không mang lại được những kết quả mong muốn vì nó nằm ngoài tầm tay của người Việt chưa kể sự phá hoại của chính Việt Minh mà sử gia Mỹ David G. Marr đã ghi trong tác phẩm của ông căn cứ vào tài liệu của huyện Sơn Tịnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, theo đó Việt Minh đã chặn bắt nhiều thuyền chở gạo từ Nam ra Bắc, lấy hết gạo, đem giấu đi hay chở lên núi cho du kích của họ.(23) Ðiều này phù hợp với những gì hai tác giả Trần Hữu Ðính và Lê Trung Dũng viết trong Cách Mạng Tháng Tám 1945, Những sự kiện lịch sử như sau:
“Ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Sơn la, Thái Nguyên, Yên Bái, trong khi các lực lượng vũ trang cùng quần chúng nhân dân khởi nghĩa đánh đồn, chiếm huyện thì đều tiến hành phá các kho thóc, muối chia cho dân, hoặc tích trữ cho bộ đội, du kích.”
(24)

Mục tiêu sau, mục tiêu “tích trữ cho bộ đội du kích” hầu như ít khi được các tác giả viết về hiện tượng Việt Minh xúi dân phá các kho thóc, gạo nhắc đến mặc dầu ai cũng biết nhu cầu tích trữ thóc gạo để dùng trong các chiến khu của Việt Minh để nuôi cán bộ và du kích ngay từ những ngày đầu là một mục tiêu tối cần thiết bên cạnh các mục tiêu kinh tài khác mà Nguyễn Lương Bằng, từ năm 1943, được Trường Chinh trao cho trách nhiệm kinh tài. Sư kiện này đã được người sau này sẽ là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kể lại và được tác giả Thép Mới ghi như sau: “Tôi từ làng Thượng Cát chỉ huy các mối buôn, thôi thì buôn đủ thứ, buôn gạo, buôn khô dầu, buôn dầu ve, dầu trẩu, buôn bè, buôn mật Mai Lĩnh bán vào Hà Nội, buôn gỗ trai làm lược bán về dưới chợ Bằng.”(25) Nên để ý là Việt Minh ở các chiến khu hồi này rất cần tiền để duy trì và phát triển các sinh hoạt của họ vì, cũng theo Nguyễn Lương Bằng qua hồi ký kể trên, vào khoảng cuối năm 1943, đầu năm 1944, khi được Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phân công “phụ trách dân vận một bộ phận an toàn khu, phụ trách binh vận và phục trách về tài chính,” ông có hỏi: “quỹ của Ðảng ta còn bao nhiêu tiền?” thì được Trường Chinh trả lời: “Tất cả còn hai mươi bốn đồng.”(26)

Câu hỏi được đặt ra ở đây là những hoạt động kinh tài này có ảnh hưởng gì tới sự gia tăng của giá bán và nạn khan hiếm lúa gạo hay không và lượng gạo do những tổ chức của Nguyễn Lương Bằng bán ra có phải là gạo cướp từ các kho chứa của nhà nước đương thời hay không? Câu trả lời phần nhiều là có. Tác giả Vũ Ngự Chiêu cũng nhắc tới sự cản trở của Việt Minh khi ông nói về việc họ cung cấp tin tình báo cho các oanh tạc cơ Mỹ vào lúc lực lượng này gia tăng hoạt động nhắm vào các đường giao thông khiến cho chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp để chuyển tin tức. Sử gia này cũng nhắc tới sự kiện Bộ Trưởng Xã Hội Vũ Ngọc Anh bị máy bay Mỹ bắn chết ngày 23 tháng 7 và việc Việt Minh xúi giục nông dân phá các kho thóc ở các địa phương.(27)

Sự thực thì hành động xúi bẩy dân chúng phá các kho thóc ở các địa phương này nằm trong chủ trương của Việt Minh. Bằng chứng là trong Lời Kêu Gọi của Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Chống Nạn Cứu Ðói với nguyên văn:

“...ai là người đương đói khổ, phải rủ nhau kéo đến phủ huyện, tỉnh trưởng, đốc lý đòi phát gạo; chẹn các xe lương và phá những kho thóc của giặc Nhật mà ăn...”

hay:

“Ðói! Ðói! Phải giữ lấy thóc gạo. Phải phá những kho thóc gạo của giặc.”

hay:

“Ðói! Ðói! Phải đánh đuổi Nhật Pháp mới khỏi đói.”(28)

Hiện tượng phá các kho thóc gạo từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1945 do Việt Minh xúi bẩy và được Mặt Trận ghi nhận như những thành tích lớn lao của họ đã xảy ra ở rất nhiều nơi và được đăng trên các báo Cứu Quốc và Cờ Giải Phóng. Một vài trường hợp điển hình người ta có thể kể là ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Ðề Thám (tức Bắc Giang) ngày 13 tháng 3, phủ Thuận Thành, tỉnh Ngô Gia Tự (tức Bắc Ninh) ngày 15 tháng 3, tỉnh Tán Thuật (tức Hưng Yên) liên tiếp các ngày 9, 10, 12, 14 tháng 5 và 8 tháng 6, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 16 tháng 5, tỉnh Nguyễn Thái Học (tức Vĩnh Yên) ngày 13 tháng 6...(29) Ðiều không kém đáng chú ý là qua những hình ảnh trong các phim tuyên truyền sau này được phổ biến, những người cướp phá các kho thóc gạo có thân hình mập mạp, khỏe mạnh thay vì ốm đói như đương thời được chụp hay tả lại.

Hành động thúc đẩy dân chúng hay tự mình phá kho thóc, kèm theo với sự xúi bẩy dân chúng không nộp thuế, đòi phát gạo... này đã được Việt Minh “kết hợp với phong trào đấu tranh vũ trang trong toàn quốc.” Thay vì gây khó khăn cho người Nhật hay người Pháp, Việt Minh đã gây ra rất nhiều khó khăn và nguy hiểm cho các nhà cầm quyền địa phương đương thời, đặc biệt là các tổng lý và các tri phủ, tri huyện là những người trực tiếp lo việc coi giữ các kho thóc gạo trong địa phương của họ, từ đó cho chính phủ Trần Trọng Kim. Lý do là vì các kho thóc gạo ở các địa phương không phải là chỉ là của người Nhật mà còn là kho dự trữ để điều hòa giá cả trên thị trường trong tổ chức chính quyền của các vua nhà Nguyễn. Nhiều người đã bị bao vây, đánh đập hay bị giết vì đằng sau những người dân thuần túy là những đội danh dự, những cán bộ và những du kích võ trang Việt Minh. Mặt khác, khi xúi người dân đi cướp các kho thóc này, Việt Minh đã biến những người dân thật thà, vô tội này thành những kẻ phạm tội và bị truy tố. Không còn cách nào để trốn tránh pháp luật, những con người khốn khổ và ngây thơ này đã phải bỏ lên chiến khu cùng với những gì họ cướp được. Trường hợp của “chú Thấu” trong hồi ký của nhà văn Vũ Thụy Hoàng là một trường hợp điển hình.(30)

Cuối cùng thì, bằng cách cướp phá các kho thóc gạo, ngoài mục tiêu tâm lý, Việt Minh còn vừa được gạo, vừa được người. Cũng cần phải để ý là các tỉnh có các kho thóc bị cướp kể trên không phải là những tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ như Nam Ðịnh, Thái Bình, Hà Ðông... nơi nạn đói hoành hành mà là các tỉnh ở miền Trung du không xa các cứ địa của Việt Minh là mấy. Người dân ở các tỉnh đồng bằng này, vì bị đói nhiều ngày, lê không nổi, nằm chết dọc đường khi kéo nhau lên các tỉnh hay phủ huyện lỵ ở miền xuôi chưa nổi, sức đâu mà kéo lên các tỉnh ở tít trên các miền Trung du này để cướp phá các kho thóc như được kể. Họ cũng không thể lên đó để lãnh thóc hay gạo hay cơm, cháo từ tay các cán bộ. Việt Minh cũng khó có thể đem thóc hay gạo xuống các tỉnh miền xuôi để phát cho họ. Trường Chinh sau này khi viết về hiện tượng cướp các kho thóc gạo cũng đã đưa ra những con số và hình ảnh mà người đọc không thể không nghĩ là ông đã phóng đại: “Hàng nghìn kho thóc của Nhật ở Bắc-bộ và Bắc Trung-bộ bị quần chúng chiếm chia cho dân nghèo. Nạn đói được giải quyết bằng phương pháp cách mạng. Nông dân Bắc-giang, Thái-nguyên, Bắc-cạn, v.v... nổi dậy chiếm đồn điền của Pháp, Nhật và tiến hành chia đất.”(31)

Câu hỏi được đặt ra là những thóc gạo cướp được đã được chở đi đâu nếu không phải là lên chiến khu như trường hợp xảy ra ở Quảng Ngãi cho thóc gạo chở từ Nam ra Bắc để cứu đói hồi còn chiến tranh và luôn cả sau này, sau biến cố 19 tháng 8.

Cuối cùng cướp phá các kho thóc gạo cũng là một cái cớ được Việt Minh triệt để nhắm vào để lên án sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim nhằm sách động quần chúng nông thôn nổi lên cướp chính quyền khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và cơ hội đến với họ. Sự thực thì nạn đói đã không kéo dài. Ngay từ tháng 5 nhờ vụ lúa chiêm được mùa và với nhu cầu lương thực không còn nhiều như trước do con số người chết quá cao, nạn đói giảm dần để sang đến tháng 6 thì gần như không còn nữa.(32) Tất cả đã xảy ra trước khi Việt Minh cướp chính quyền hay nói cách khác, Việt Minh không những không đóng góp được gì tính cực vào nỗ lực cứu đói trong thời gian này mà còn cản trở những hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim cũng như của các nhà cai trị địa phương thời đó.

    Thay cho lời kết

Ngày Tết là ngày gia đình sum họp. Sum họp không phải chỉ trong gia đình nhỏ gồm có vợ chồng con cái mà là sum họp cả đại gia đình nội ngoại và luôn cả tổ tiên, cả người còn sống lẫn người đã chết. Bữa cơm cúng chiều ba mươi Tết là để mời các cụ về và ngày mùng bốn hóa vàng là để tiễn các cụ đi. Cho tới nay, vì thiếu những thống kê chính xác, ta không biết chính xác con số các nạn nhân của Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 là bao nhiêu. Một triệu, hai triệu, hơn nữa hay ít hơn. Tất cả đều có thể. Cũng vậy, với các con số nạn nhân của những biến cố bi thảm sau đó như cuộc thanh toán các đảng phái quốc gia sau ngày Việt Minh cướp chính quyền 19 tháng 8, cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, hai cuộc chiến tranh “Chống Pháp,” “Chống Mỹ,” Phong Trào Vượt Biên, Vượt Biển sau năm 1975... Ba triệu, bốn triệu, năm triệu hay hơn nữa. Tất cả cũng đều có thể. Nhưng có một điều đúng nếu không nói là rất đúng là không một gia đình Việt Nam nào, nhất là ở Miền Bắc, là không mất mát. Ðau thương tràn ngập mọi nhà, chết chóc đầy ngập các hang cùng ngõ hẻm, từ rừng sâu, núi thẳm đến biển cả, đại dương.

Câu hỏi được đặt ra là hồn oan của những nạn nhân kể trên, khởi đầu là hai triệu nạn nhân, nói theo Hồ Chí Minh, của Nạn Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945, sau 70 năm đã được giải thoát hay chưa? Ðã có ai hàng năm lập đàn tràng để giải oan cho họ chưa? Nếu chưa, xin quý vị hãy vui lòng dành một phút sau khi đọc bài này để suy ngẫm và tưởng nhớ tới họ coi như một cách giải oan cho họ cũng như giải oan cho hàng triệu người khác đã bị lợi dụng và bị hy sinh sau đó. Cầu mong lịch sử sẽ không còn tái diễn dù dưới hình thức nào đi chăng nữa!

Con Đò Đưa Xác - Thanh Thúy - YouTube
Ðể kết thúc bài này, người viết xin gửi tới quý độc giả những câu đầu và câu cuối của bài Con Ðò Ðưa Xác của hai tác giả Ngọc Bích và Nguyễn Văn Ðức sau đây mà quý độc giả có thể mở nghe dễ dàng trên các trang mạng, để thấy những cảm giác thê thảm đến độ ghê rợn của người đương thời:

Gió thổi thì thầm, mưa bay lâm râm.
Ai chở con đò bên dòng sông vắng?
Ai khóc tỉ tê trên dòng trường giang?
Ðò sang ngang, dưới ánh trăng vàng.
Gió thu hiu hắt nức lên từng cơn.
Nặng nề một chiếc thuyền con,
Âm thầm chở mấy vong hồn qua sông. 
Trăng lên, mây tan!
Sao trăng đẹp thế này!
Mà trên sông vắng,
Con đò cay đắng đưa xác người về đâu?
Ô hô! Ô hô! Con ới mười mấy tuổi đầu,
Vì chưng đói rét ngậm sầu thác oan!
.....
Trôi về đâu? Con đò xác!
Lấp vào đâu? Nỗi niềm thương!
Mang mang trong mây tan!
Phiêu linh có một bóng ông già
Tay chèo tay lái,
Lòng buồn tê tái,
Lòng buồn tê tái đem chôn đàn con! 
Trôi về đâu? Con đò xác!
Lấp về đâu? Nỗi niềm thương!


Con Đò Đưa Xác
https://youtu.be/eb_ZbnKktNY

Chuyện Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, lợi dụng nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu, xúi giục các nông dân vô tội nổi loạn cướp phá các kho thóc gạo rồi sau đó theo đảng này cướp chính quyền với những hứa hẹn chia ruộng đất và không còn phải đóng thuế nữa, là một điều dễ hiểu. Ðiều đáng tiếc là người chết không còn sống lại để thấy hiện trạng của đất nước Việt Nam 70 năm sau đó như thế nào.

Phạm Cao Dương
(Tuần lễ tiễn Ông Táo lên chầu Trời, Tết Ất Mùi 2015)
___________________
Chú thích:
(1) Henry, Yves and de Visme, Documents de démographie et riziculture en Indochine. Hanoi: Publication du Bulletin Économique de l1Indochine, 1928, tr. 332 và kế tiếp. Xem thêm cùng tác giả, Économie agricole de l1In dochine. Hanoi: IDEO, 1932; Nguyễn Thế Anh, Into the Maelstrom: Vietnam During the Fateful 1940s. Westminster, CA: Viện Việt Học, 2005, tr. 45, và Phạm Cao Dương, Vietnamese Peasants under French Domination, 1961-1945, Monograph Series No. 24. Lanham, MD: University Press of America, 1985, 125 và Thực Trạng Của Giới Nông Dân Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc. Saigon: Nhà Sách Khai Trí, 1967, tr.185-186. 
(2) Lãng Nhân, “Lời Người Bán Cám,” trong Ðông Dương Tạp Chí, No. 27, Samedi 13 Novembre 1937, Mục “Chuyện Vô Lý,” tr. 10; Phạm Cao Dương, Thực Trạng của Giới Nông Dân..., tr. 186-187. 
(3) Nguyễn Thế Anh, như trên, tr. 45.
(4) Như trên, tr. 46.
(5) Ðoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên Saigon: Nam Chi Tùng Thư? Ðại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 28 
(6) - như trên, tr. 29.
(7) Ðoàn Thêm,1945-1954, Việc Từng Ngày, Hai mươi Năm Qua. Saigon,?, Los Alamitos, California: Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 3.
(8) Văn Cao, “Tôi Viết Tiến Quân Ca,” trong Một Chặng Ðường Văn Hóa, Tập Hồi Ức Và Tư Liệu Về Ðề Cương Văn Hóa Của Ðảng Và Ðời Sống Tư Tưởng Văn Nghệ, 1943-1948. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tác Phẩm Mới, 1985, tr. 109.
(9) Văn Cao, “Tôi Viết Tiến Quân Ca,” tr.110-111.
(10) Nguyễn Huy Tưởng. “Nhật Ký Nguyễn Huy Tưởng,” trong Một Chặng Ðường Văn Hóa..., như trên, tr. 125.
(11) Như trên, tr. 129.
(12) Vũ đình Hòe, “Những Ngày Tháng 8 ở Hà Nội,” trong Nguyễn Văn Khoan (Chủ Biên). Tổng Khởi Nghĩa Tháng 8-1945 Tại Hà Nội, Việt Minh Hoàng Diệu. Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 255.
(13) Marr, David G, Vienam 1945..., đã dẫn, tr. 104; Tonnesson, Stein. The Vietnamese Revolution of 1945..., đã dẫn, tr. 293.
(14) Devillers, Philippe, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952. Paris: Editions du Seuil, 1952, tr. 131
(15) Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled. Vol. 1, New York: Praeger, 1967, tr. 240.
(16) Logevall, Fredrik, Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America's Vietnam. New York: Random House, 2012, tr 81.
(17) Woodside, Alexander B. Community and Revolution in Modern Vietnam. Boston: Houghton Mifflin, 1976, tr. 159.
(18) Marr, đã dẫn, tr. 104.
(19) Nguyễn Văn Khoan, Tổng Khởi Nghĩa Tháng 6-1945..., đã dẫn, tr. 37.
(20) Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975 (Tập A: 1939-1946, tr. 221.
(21) Ðoàn Thêm, 1945-1954, Việc Từng Ngày... đã dẫn, tr. 6 - 7.
(22) Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, đã dẫn, tr. 277. Marr, Vietnam 1945... đã dẫn, tr. 102. Nguyễn Thế Anh, Into the Maelstrom, đã dẫn, tr. 49.
(23) Marr, Vietnam 1945..., đã dẫn, tr. 102-103.
(24) Trần Hữu Ðính và Lê Trung Dũng, Cách Mạng Tháng Tám 1945, Những Sự Kiện Lịch Sử. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Sử Học, 2000, tr. 206.
(25) Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Hồi Ký Cách Mạng. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, 1995, tr. 125. 
(26) - như trên, tr. 123.
(27) Vũ Ngự Chiêu, “The Other Side of the Vietnamese Revolution,” đã dẫn, tr. 308.
(28) Trần Huy Liệu và Văn Tạo, Cao Trào Ðấu Tranh Tiền Khởi Nghĩa,” Tài Liệu Tham Khảo Lịch Sử Cách Mạng Cận Ðại Việt Nam, Tập XI. Hà Nội:Nhà Xuất Bản Văn Sử Ðịa, 1957, trang 97 và kế tiếp
(29) - như trên, tr. 103 và kế tiếp.
(30) Vũ Thụy Hoàng, “Ðêm Hà Nội Nổ Súng, Chiến Tranh Việt Pháp bùng nổ 50 năm trước,” Hồi Ký, trong Thế Kỷ 21, Năm Thứ Tám, số 92, December 1996, tr. 35.
(31) Trường Chinh, Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân Việt-Nam, Tác Phẩm Chọn Lọc, Tập I. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1975, tr. 346.
(32) Vũ Ngự Chiêu, “The Other Side of the Vietnamese Revolution,” đã dẫn, tr. 308.


Nguồn: http://www.dienhongthoidai.com/2015/03/ai-gay-ra-nan-oi-nam-at-dau-1945.html



 

Viết từ một người Lính Không Quân VNCH.

 

 photo Noacuten Phi cocircng_zpsnzj1s8lq.jpg

 

Viết từ một người Lính Không Quân VNCH.

 

 

 photo camera.png




Ông Nguyễn Thành Trung,


Thật sự, tôi không muốn viết những dòng này, viết về sự thực của câu chuyện cũ, câu chuyện này được ông kể lại theo cách bịa đặt của ông, nhiều tưởng tượng, có phần cổ xúy cho cá nhân ông, che lấp đi cái thực của ông mà tôi và nhiều người, trải qua một thời gian dài không muốn nói đến nữa, đó là sự phản bội, vong ân cái quá khứ mà ít nhiều gì cái quá khứ này đã nuôi dưỡng, dạy dỗ ông, trong hoàn cảnh côi cút, không nơi nương tựa thuở ấu thơ của ông.

 photo camera.png Bài viết này, không nhằm gửi đến riêng ông, cũng không để đính chính với Mark về những điều lệch lạc, thiếu trung thực của ông đã nói với Mark. Tôi chỉ viết cho đồng đội của tôi, cho đồng bào tôi đọc, riêng cá nhân ông, với luận điệu thiếu trung thực, thêm thắt bịa đặt của ông, trong cuộc nói chuyện với Mark, bài viết này không muốn những con người khoác loác, dối trá với chính mình như ông được đọc nó.

Vào khoảng tháng 04 năm 2000, qua một cuộc phỏng vấn của Mark McDonald, một ký giả Hoa Kỳ đã đến Sài Gòn phỏng vấn ông. Sau khi qua trở lại bên Hoa Kỳ, bài phỏng vấn này đã được đăng rộng rãi trên khắp Hoa Kỳ, cả trên mạng lưới thông tin điện toán toàn cầu. Nội dung bài, phản ảnh đầy đủ tất cả những gì ông đã nói, không thêm bớt sửa chữa (tôi tin điều này bởi ký giả ở các xứ tự do rất ít khi thêm thắt, bịa đặt). Tôi và đồng đội của tôi, đồng bào của tôi, tất cả đều đã xem bài tường thuật này. Không ai thèm trả lời Mark, không ai thèm viết để đính chính với công luận ở đây, hoặc ở Việt Nam, hay bất cứ chỗ nào trên toàn thế giới này, về những điều ông nói thông qua Mark. Chúng tôi và mọi người đều cảm thấy vô bổ, mất thì giờ khi phải tranh luận, hay giải thích bất cứ điều gì với ông và các đồng chí của ông, bởi thật mất công khi phải làm những điều này với những con người không còn biết sự thật, những con người hầu như cả cuộc đời chìm đắm trong u mê tưởng tượng, sống còn và thăng tiến bằng việc ăn gian nói dối, lừa phỉnh với đồng bào, cả với các đồng chí, và với chính bản thân của họ.

Đi thẳng vào bài phỏng vấn được viết lại dưới dạng một loại tự thuật, nhân vật chính là ông. Toàn thể bài tự thuật này có thể tóm gọn lại bằng câu kết luận sau cùng của ông: "Tôi mến các đồng đội của tôi lắm, nhưng tôi không quan tâm gì về những điều họ nghĩ về tôi, việc tôi làm vào những ngày cuối tháng 04 năm 1975 duy nhất chỉ nhằm kết thúc cuộc chiến thê lương nhất của Việt Nam, nhiều sinh mạng hy sinh oan uổng, tôi có bổn phận phải kết thúc cuộc chiến này trong khả năng của mình, đem lại thanh bình cho đồng bào tôi, cũng là một việc làm báo thù cho cái chết của cha tôi bị chính quyền miền Nam sát hại."

Bỏ ra ngoài tất cả những đoạn viết trong bài được trinh thám hóa bằng cuộc đời mai ẩn của ông trong giới học sinh, sinh viên Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, được ăn học bằng sự nuôi dưỡng của chính quyền VNCH, rồi trà trộn vào hàng ngũ Không Quân VNCH chúng tôi, cuối cùng thi hành những mệnh lệnh của Việt cộng, phản bội lại tất cả những gì được thụ ơn, chịu nghĩa...

Tất cả các đoạn này kể lại không lớp lang thứ tự, nhiều chỗ mang tính cường điệu, anh hùng cá nhân, thậm chí khi kể về công việc chuyên môn của một người lái máy bay, nó cũng sai và thêm thắt, bịa đặt, hoàn toàn không phù hợp với những hiểu biết bình thường của một người biết lái máy bay.

Như đã nói ở trên, tôi chỉ tóm gọn bài tự thuật này bằng phần kết thúc bài nói chuyện của ông với ký giả Mark McDonald, và tôi chia phần này thành hai vế:

Vế thứ nhất: Mục đích của việc ông oanh kích vào Dinh Độc Lập và dẫn dắt những nhân viên phi hành của Việt cộng về không tập Phi Trường Tân Sơn Nhất, theo ông nói là nhằm kết thúc cuộc chiến thê lương nhất của Việt Nam.

Sự thật, như ông và tất cả mọi người đều biết, cuộc chiến ở Việt Nam chẳng kết thúc sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, Việt cộng đã lôi cuốn toàn dân Việt Nam vào một cuộc chiến khác, cuộc chiến mà hậu quả và di hại không kém cuộc chiến ý thức hệ trước đấy. Nhiều trăm ngàn thanh niên Việt Nam, thế hệ đàn em, cả những thế hệ con, cháu chúng ta, tiếp tục bị xô đẩy vào cuộc chiến thê lương, tàn nhẫn này. Đó là cuộc chiến ở các chiến trường Căm Bốt, Lào và cả phần biên thùy phía Bắc, tiếp giáp với Trung cộng. Chứng tích và hậu quả của cuộc chiến tranh này còn rõ rệt đến hôm nay với nhiều nghĩa địa, bạt ngàn bia mộ ở một số huyện lỵ của tỉnh Tây Ninh, Cao Bằng, Hà Tuyên, v. v.. nơi chôn cất thi hài của những thế hệ sau chúng ta đã mạng vong oan uổng. Cả nước đã nhìn ra sự thực của câu nói: "Chiến thắng giặc Mỹ xong, ta sẽ xây dựng đất nước bằng năm, bằng mười ngày nay..." của ai đó, đã lừa phỉnh hoặc trí trá với nhân dân mình, trong đó có cá nhân ông đấy ông Trung ạ!

Hậu quả này còn kéo dài theo từng đoàn thương phế binh của cuộc chiến sau 30 tháng 04 năm 1975, xuất hiện nhan nhản khắp nẻo đường các thành phố lớn, chưa hết! dân Việt Nam chúng tôi còn gánh thêm cái món nợ tiền tệ, khí tài mà Việt cộng đã vay mượn các nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em, để tiến hành giấc mộng bá chủ bán đảo Đông Dương, như Lê Duẩn và bè lũ thường huênh hoang khi còn sống. Cho đến tận hôm nay, hơn 25 năm, sau cuộc chiến quốc - cộng Việt Nam, nhiều chục ngàn thanh niên Việt Nam còn ngủ bờ, ngủ bụi bên Vương quốc Lào, nhiều trăm ngàn thanh niên khác phải gác bỏ chuyện học hành, chuyện phụng dưỡng cha mẹ già, dạy dỗ các em thơ để sung vào bộ đội, tiếp tục cuộc chiến do Việt cộng đang ôm ấp, chờ đợi khởi phát.

Kết luận, những điều trình bày ở vế này là: Chiến tranh ở Việt Nam chưa hề chấm dứt kể từ sau tháng 04, 1975. Ông đã nói láo với Mark, nói không đúng với sự thật của Việt Nam, bóp méo đi sự thực mà ông biết rất rõ.

Việc ông nói láo do tính chủ quan hay khách quan, do chính ông hay do chế độ Việt cộng ra lệnh cho ông, tôi không bàn ở đây.

Vế thứ hai: Trong câu kết luận trong cuộc trao đổi giữa ông với Mark là ông oanh kích vào dinh Độc Lập, và dẫn dắt Việt cộng về oanh kích vào phi trường Tân Sơn Nhất cũng để trả thù cho cái chết của thân phụ ông.

Thân phụ của ông, theo như lời ông giới thiệu khi mở đầu cuộc nói chuyện với Mark, là một du kích Việt cộng. Ông còn khoe là có đâu đó vài người anh trai cũng là du kích Việt cộng. Ở vế này, tôi phải dài dòng về thân phụ của ông trong vai trò du kích quân Việt cộng.

Trước đây, nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi biết rõ và cũng từng chứng kiến những vụ ám sát, thủ tiêu, khủng bố đẫm máu, của du kích Việt cộng nhắm và hàng ngũ viên chức chính phủ, quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa, và cả những người dân lành vô tội. Đó là các vụ đặt chất nổ trong thành phố, gài mìn trên quốc lộ, đánh phá các Ấp Chiến Lược, và cao điểm của các hành động khát máu này là việc du kích Việt cộng tấn công vào rất nhiều bệnh viện ở các làng xã xa xôi, cướp bóc thuốc men, y cụ, đốt phá nhà thờ, chùa chiền....

Sau này, quy mô tàn sát của Việt cộng to lớn và tàn ác hơn qua những hố chôn người tập thể ở Huế vào Tết Mậu Thân, pháo kích vào các thành phố, pháo kích cả vào các trường tiểu học, v. v... Còn nhiều vụ việc nữa nhưng vì khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, tôi không thể kể hết ra được. Tất cả những hành động tàn ác này, Việt cộng và cụ thể là các tầng lớp du kích, nằm vùng, sớm đầu, tối đánh như thân phụ của ông, đã gây ra trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi.

Trước những hành động khát máu, mang tính phá hoại sự an ninh và thanh bình của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, không cần phải là một thanh niên, dẫu chỉ là một người bình thường nào nhất trong một đất nước đang xây dựng và phát triển, ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì để ngăn chặn những hành động sát nhân, phá hoại man rợ, thiếu tính người này, đồng thời để bảo vệ an ninh tối thiểu cho đồng bào, lương dân vô tội, bảo vệ các thành quả y tế, giáo dục, kinh tế, v. v... của đất nước có luật pháp và hiến pháp mà mình đang sống.

Do vậy, việc thân phụ ông phải đền tội do các tội ác mà ông ấy gây ra, như lời ông thuật lại, công bình mà xét, không có gì là quá đáng.

Tuy nhiên, ông có nói thêm, thân phụ ông bị xử bắn ngay trước mặt thân mẫu và chị em gì đó của ông, sau đấy những người xử bắn còn kéo lê xác của thân phụ ông trên những con đường mòn của tỉnh Bến Tre... Tôi e rằng ông cường điệu và thêm thắt tình tiết việc này.

Dẫu sao, việc xử bắn những người gây tội ác vớI lương dân vô tội, phá rối trị an của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là việc cần làm trong một quốc gia có luật pháp và hiến pháp, điều này không cần bàn cãi thêm, cũng ví như dưới chế độ Việt cộng hiện nay, nhiều người bị xử bắn vì vi phạm những điều quy định do đảng Việt cộng ban hành.

Việc cần xem xét và phân tích để xác định những điều ông thêm thắt, tăng cường tính chất tàn ác của những người xử bắn thân phụ ông, mà thâm ý của ông muốn gán ghép cho cả chế độ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi trước công luận, thông qua một anh ký giả nước ngoài. Chúng ta cùng xem xét và luận bàn việc này.

Ông từng được ăn học dưới chế độ của chúng tôi, ông khoe với Mark, ông từng là sinh viên Đại Học Khoa Học Sài Gòn, thiết tưởng ít nhiều gì, ông cũng biết chút ít về pháp luật và hiến pháp của VNCH chúng tôi. Việc xử bắn một tội phạm nguy hiểm nào đấy, luôn luôn được thi hành theo luật pháp và hiến pháp đương thời, tiểu đội hành quyết, sau khi thi hành xong bản án, họ thường thông báo cho thân nhân của tội phạm đến để nhận thi hài của tội phạm về an táng. Trong trường hợp, không ai thừa nhận thi hài của tội phạm (cụ thể là trường hợp của thân phụ ông đấy), chính quyền sẽ tiến hành mai táng theo thủ tục bình thường, một phần vì luật pháp đã quy định, một phần để bảo đảm vệ sinh môi trường chung quanh. Những công việc này, thật sự được chu tất bởi tính pháp trị của một đất nước có hiến pháp và luật pháp.

Không một cá nhân, tổ chức nào được quyền xâm phạm vào thi thể của tội phạm, cho dẫu kẻ tội phạm ấy khi còn sống, gây ra nhiều tội ác man rợ, gây nợ máu vớI nhiều người, như thân phụ của ông. Việc ông mô tả là ai đấy, đã lôi kéo xác của cha ông trên các con đường đất ở tỉnh Kiến Hòa năm xưa, xem ra không mang tính trung thực.

Nếu có ai đó, vì căm hơn thân phụ của ông, lúc sinh thờI từng hãm hiếp vợ con của họ, ám sát thủ tiêu thân nhân của họ, gài mìn các chuyến xe đò, đặt chất nổ ở chợ búa, gây tử thương cho thân nhân đồng bào của họ, họ cũng chỉ oán hận cho đến khi pháp luật xử bắn cha ông là xong, chẳng ai có thì giờ để làm thêm cái việc vô ích, mất v sinh là lôi kéo cái xác bị bắn kia lê thê trên đường đất đâu đó. Hơn nữa, cơ quan pháp luật, nơi ban hành bản án tử hình cha ông, chắc chắn sẽ không dung tha cho những người làm các việc này đâu. Không phải vì họ thương xót gì thân phận của một gã du kích hèn nhát, khát máu kia đâu, duy nhất bởi luật pháp không cho phép ai được làm như vậy.

Còn việc ông cứ khư khư, cùng luận điệu như các đồng chí của ông, phủ nhận hiến pháp và luật pháp của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, gán ghép các việc làm không có kia cho chế độ và chính quyền chúng tôi, thì quả ông và các đồng chí của ông có lệch lạc tư tưởng, mất lập trường khi nói lên điều đó.

Tại sao để có thể kết luận cái lập trường chao đảo của ông và các đồng chí của ông qua việc các ông phủ nhận hiến pháp và luật pháp của VNCH chúng tôi? Đơn giản thôi, vì thật sự một đất nước vô hiến pháp, vô luật pháp, muốn bắn ai thì bắn, bắn xong muốn lôi kéo xác tội phạm đi đâu, làm gì thì làm, thì thật sự đó là một đất nước hỗn loạn, vô trật tự, vô tổ chức. Một đất nước như vậy, quân đội Việt cộng phải hy sinh trên một triệu sinh mạng, mất một thời gian trên 20 năm, vay mượn các nước "Xã Hội Chủ Nghĩa anh em" tiền tỉ tỉ để mua vũ khí và quân dụng, mới triệt hạ được thì e rằng cái quân đội Việt cộng kia quả bạc nhược và cái chiến thắng mà chúng có được là do cơ may, hên xui, chứ làm gì còn quân đội anh hùng, chiến thắng nghiêng trời lở đất như Bộ Chính Trị của ông thường rêu rao.

Trong thời gian chúng tôi bị cầm giữ ở các trại tù cải tạo, có một vài đồng đội tôi vì không kham nổi sự cơ cực, đói rét, họ vượt ngục; công an, bộ đội truy lùng, đuổi theo và bắt lại được, trước khi sát hại anh em đồng đội chúng tôi, lũ người này đánh đấm, làm tất cả những gì có thể nói là tận cùng của sự dã man.

Sau khi bắn đồng đội chúng tôi xong, họ không chôn cất như chúng tôi đã làm với thân phụ của ông, chúng tôi tự nhặt nhạnh thi thể của đồng đội, bó vào trong các bao bố bằng ny lông, dùng để đựng phân bón, chúng tôi cáng thi thể đồng đội chúng tôi trên một cái ky dùng để khiêng đất hàng ngày, đi chôn.

Chúng tôi chẳng cần phải kể với Mark, hoặc kể lại với thân nhân, vợ con của đồng đội chúng tôi về những hành động này của người Việt cộng các ông, bởi chúng tôi chấp nhận sự trả thù tán tận lương tâm này của chúng, và tự xem cái chết của cá nhân mình, của đồng đội mình là sự hy sinh cần có cho chính thể và đồng bào Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi.

Cứ bình tâm mà suy xét, ngay chính bản thân của ông, khi dẫn dắt Việt cộng vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất, thù ấy kể như đã trả xong, nhưng Việt cộng thì không dừng lại ở đấy, việc đày đọa các Quân Cán chính của VNCH trong các trại tập trung, cứ xem như để trả thêm mối thù cho cái chết của thân phụ ông, thế còn việc nhiều đồng bào vô tội khác, quanh năm họ chỉ buôn bán, làm việc bình thường như bao người bình thường khác trên thế giới, phút chốc mất nghiệp, mất nhà cửa, ruộng đất, công ăn việc làm, mất tất cả những gì của cuộc sống bình thường mà trước đấy, chúng tôI chiến đấu bảo vệ cho họ. Nhiều thanh thiếu niên khác của miền Nam Việt Nam chúng tôi, phút chốc họ bị lôi ra khỏi gia đình, học đường, lôi khỏi tuổi Xuân, để bị xô đẩy vào các lò lửa chiến cuộc do Việt cộng chủ xướng... Chẳng lẽ cũng vì cái chết của thân phụ ông mà Việt cộng ưu ái trả thù cho ông chăng?

Ngay lúc này, khi những dòng này đang viết, Tổ Chức Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc có đưa ra các báo cáo trước công luận thế giới về mức độ lợi dụng trẻ em tuổi vị thành niên trong lao động và sản xuất của Việt Nam, và còn phải kể đến việc không ít các em trở thành phương tiện mua dâm của những con dã thú đến từ Hương Cảng, Mã Lai, và nhiều nước khác nữa khi đến Việt Nam du lịch, hẳn các em bé ngây thơ vô tội này cũng đón nhận mối thù của ông thanh toán cho cái chết của thân phụ ông? Rộng lớn hơn, hẳn tất cả đồng bào Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đang đói rét, lầm than, tha phương cầu thực ngay trên chính quê hương xứ sở của mình, bị các tầng lớp công an, viên chức Việt cộng hà hiếp, đàn áp, bóc lột, họ bị như vậy vì cái mối thù của ông hẳn?

Chúng tôi, những người vì lý do này hay vì lý do khác, tất cả đều phải bỏ Việt Nam ra đi, chúng tôi có những mối thâm thù với Việt cộng, hầu hết những người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay, đều có người thân bị tử vong vì sự trả thù cuồng dại của Việt cộng, nếu không thì cũng phải tiêu gia, bại sản vì bè lũ tay sai, cướp bóc, tịch thu tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn... và rất nhiều anh em chúng tôi tự các trại tập trung trở về với gia đình, xã hội, chúng tôi ghi nhớ mối thâm thù này đến chết. Nhưng, khi đất nước bị thiên tai, lũ lụt, đồng bào lâm cảnh màn trời chiếu đất, chúng tôi không nghĩ đến mối thâm thù này, chúng tôi tự quyên góp, vận động để gửi về Việt Nam những đồng tiền có được bằng mồ hôi, nước mắt trên đất khách, quê người, để mong xoa dịu phần nào nỗi thống khổ đã triền miên nhiều đời trên dân tôi, nước tôi.

Chúng tôi biết, và biết rất rõ, trong những bàn tay ngửa ra nhận những ân tình của chúng tôi chuyển về, có cả những bàn tay của những kẻ năm xưa đã thẳng tay sát hại cha mẹ, anh em, thân nhân, đồng đội chúng tôi, có cả những bàn tay đã từng cướp sạch tiền của, nhà đất, ruộng nương, cùng công ăn việc làm thường nhật của chúng tôi... Chúng tôi cũng biết thật rõ, không ít người trong hàng ngũ đồng chí của ông sẽ ăn chặn, bớt xén những đồng tiền mồ hôi nước mắt của chúng tôi gửi cho đồng bào các vùng thiên tai, bão lụt, và chúng tôi cũng biết thật rõ những đồng chí các ông hiện nay, bây giờ, ăn nhậu, tiệc tùng sang trọng hơn chúng tôi rất xa, có những đồng chí của ông hiện đang có con em theo đuổi các Đại Học đắt tiền trên Hoa Kỳ mà chính bản thân con em chúng tôi đang ở Hoa Kỳ, hàng mơ ước, mong đợi...

Chúng tôi biết rất rõ, nhưng chúng tôi vẫn phải làm, vẫn phải dè sẻn mức chi dụng để thi hành cái bổn phận, cái tính người kia.

Cái tính người này, chúng tôi được học hành và dạy dỗ tự bé ở VNCH ông Trung ạ. Dẫu ly tông xa tổ, chúng tôI vẫn gìn giữ, bởi chúng tôi ý thức một điều, đánh mất cái này, tức là trở thành thú vật, là trâu, chó, là heo, ngựa, v. v.. Ông cũng từng được hấp thụ nền giáo dục này của Việit Nam Cộng Hòa chúng tôi, trong vòng tay bảo vệ của chúng tôi năm xưa, ông không phải gọi kẻ xa lạ nào đấy bằng Bác khi còn tấm bé, ông cũng không phải quên công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy để ghi nhớ cho cái công ơn bố láo của Đảng gì đó, của Bác gì gì đó, cho đến ngày ông phản bội chúng tôi.

Ngay cả đến phút cuối, khi ông mờ mắt vì những hứa hẹn hão huyền của Việt cộng, để làm cái chuyện nông nỗi năm xưa, hẳn ông vẫn chưa quên? Lúc ấy, ông đã bỏ vợ, bỏ con lại trong vòng tay của chúng tôi, thi hành cái mệnh lệnh của Việt cộng mà như ông đã nói với Mark là đã được bàn thảo, kế hoạch rất kỹ trước đấy. Ông dẫn dắt Việt cộng trở về oanh kích nơi đang cưu mang vợ con ông. Giả dụ, một quả bom oan nghiệt nào đấy vô tình giết hại vợ con ông trong vòng tay của chúng tôi, hẳn ông sẽ có thêm chuyện bịa đặt, thêm thắt nữa về những cái tính người của chúng tôi cư xử với kẻ phản bội, kẻ phản quốc, tên tội phạm nghiêm trọng?

Nhiều năm trôi qua, ông có nghĩ đến việc này không? Suốt 25 năm qua, có lúc nào ông tự hỏi - tại sao khi ông liều mình thi hành mệnh lệnh của Việt cộng, để Việt cộng lại có thể nhẫn tâm, bỏ vợ con lại trong vòng tay của chúng tôi không? Việt cộng và hàng ngũ nằm vùng, du kích không ít trong lãnh thổ của chúng tôi, tại sao chúng không đem vợ con ông ra mật khu trước, để ông được yên tâm thi hành cái việc làm do chúng chỉ thị? Thử một lúc bình tâm nào đó, suy nghĩ chín chắn về điều nay theo cái nhìn trung thực nhất của người bình thường xem sao?

Rất là vô ích khi kể lể điều này với ông, nhưng vẫn phải nhắc đến, viết lại, vì đây là cái tính người, bình thường như bao tính người khác mà ông và các đồng chí của ông chưa từng biết, chưa từng làm được, chưa từng ao ước vươn đến.

Còn nếu, ông xem việc bỏ vợ con lại cho chúng tôi để tích cực thi hành nhiệm vụ. Việt cộng giao cho ông, là chuyện chuyên chính vô sản, thì quả là ông cũng đạt đến được cái đích vô gia đình của Việt cộng trước khi quay đầu về với chúng. Riêng cá nhân tôi, tôi nghĩ, trong thâm tâm của ông, lúc ông quyết định thực hiện cáI ý đồ riêng tư nọ, ông đã chắc ăn là quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi biết tôn trọng, luật pháp và hiến pháp của đất nước mình, chúng tôi hành xử công việc theo tinh thần thượng tôn luật pháp, không bao giờ tiểu nhân, trả thù ông bằng cách đày đọa vợ con ông, bắt vợ con ông đi vùng kinh tế mới để cưỡng đoạt nhà cửa, ruộng vườn, tư liệu sản xuất, nhà máy, công ăn việc làm, như Việt cộng từng làm với vợ con chúng tôi, do vậy, do chắc ăn như vậy, ông mới dám để vợ con lại thủ đô Sài Gòn an toàn hơn là cưu mang về vùng giải phóng của các đồng chí của ông...

Kết luận cho đoạn viết dài dòng này, điều ông tường thuật với Mark về cái chết của thân phụ ông cũng thiếu trung thực, thêm thắt, chính xác hơn là tuyên truyền, ngụy biện cho hành động của ông đã làm vào những ngày tháng 04 năm 1975.

Hôm nay, khi viết những dòng này, tôi vẫn còn uất hận, nhiều đồng bào tôi, đồng đội tôi không thể quên kẻ thù và những tội ác của chúng, nhưng chúng tôi phải nén nỗi uất hận này trước hoàn cảnh tang thương tang tóc của nhiều đồng bào chúng tôi đang màn trời, chiếu đất, đang vô vọng trước cảnh đói rét chưa từng trong đời, chúng tôi tạm nguôi nỗi uất hận, sự căm thù để nghĩ về đồng bào chúng tôi.

Chúng tôi thừa biết ông và các đồng chí của ông đang mỉm cười đắc chí vì đạt được những mưu đồ đã sắp đặt, và nhiều đồng chí của ông, đôi khi cả chính bản thân ông đang ký sinh vào những ân tình của chúng tôi gửi về cho các đồng bào khốn khổ này!

Chúng tôi vẫn phải làm!

Bởi như đã nói, chúng tôi không thể mất đi cái tính người mà chúng tôi được nuôi dạy từ trong nước. Bài viết này muộn màng so với thời điểm mà ông trình bày quan điểm lập trường của ông với một phóng viên Mỹ. Nhưng tôi vẫn viết, không để tranh luận hơn thua với những điều ông nói với Mark, lại chẳng cần phải thanh minh gì với công luận về những điều này, duy chỉ trình bày một điều thực, việc thực, con người thực từ những những chuyện thực, thuộc thiên niên kỷ trước.

Tôi cũng không e ngại việc ông và các đồng chí của ông sẽ bóp méo lịch sử Việt Nam như nhiều người thường lo ngại, bởi tôi tin một điều, những con người trí trá, gian dối, lừa thầy phản bạn, những kẻ này thường hay sợ sự thực, sợ đối diện với sự thực, mà lịch sử luôn luôn là sự thực, việc thực, người thực, do vậy, ông và các đồng chí của ông làm sao có thể bóp méo được lịch sử.

Ông cũng đừng lo là về sau này, nếu chúng tôi có giành lại được chính quyền ở Việt Nam, chúng tôi sẽ không bắt ông đi trình diện, để sau đó gửi ông vào một trại tập trung xa xôi hẻo lánh nào đó, nơi đó ông sẽ bị bỏ đói, bị lao động khổ sai, chết dần, chết mòn như Việt cộng đã làm với tôi, với anh em đồng đội chúng tôI khi chúng cướp được, VNCH chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm như Việt cộng đã làm, để trả thù việc ông phản bội chúng tôi đâu. Chúng tôi không quan tâm gì mấy về cái việc nông nỗi, trí trá của ông đâu, vì bởi như tôi đã nói, chúng tôi phải bảo vệ cái tính người sẵn có của chúng tôi.

Còn một điểm nhỏ, tôi cần nói thêm với ông, trong đoạn cuối của bài tường thuật với Mark, ông gọi chúng tôi là đồng đội! Tôi e rằng ông đi hơi xa và quá hấp tấp để dùng chữ đồng đội này. Nhắc ông nhớ một điều, hai chữ ‘đồng đội’ và ‘đồng chí’ khác nhau xa lắm ông Trung ạ! Ông từng có thời gian đứng trong hàng ngũ chúng tôi, chắc ông ắt hiểu cái ý nghĩa cao quý của chữ đồng đội. Nhiều anh em chúng tôi từng hiên ngang bước tới, nhận lãnh cái oan nghiệt của chiến tranh thay cho chúng tôi, vì cái ý nghĩa đồng đội này. Cho mãi đến hôm nay, chúng tôi vẫn gọi nhau là đồng đội, dẫu chúng tôi bước ra khỏi cái tử sinh của chinh chiến, vì chúng tôi nặng nợ với nhau, thật sự là đồng đội của nhau, cùng nhau nhìn về một hướng, cùng phong cách khi còn sống, thật sự thương xót, đau đớn khi nhìn đồng đội mình còn bị giặc cầm giữ, hành hạ, thảm sát. Chúng tôi biết nhục nhã, hổ thẹn khi vì bất cứ lý do gì, quay lưng đi trước sự đau khổ của đồng đội, phản bội lại đồng đội. Giữa chúng tôi, chưa hề có đồng đội nào chạy sang phía Việt cộng, dẫn dắt, chỉ bảo Việt cộng cách thức, đường lối để đày đọa, tàn sát đồng đội mình. Chữ đồng đội ý nghĩa như vậy ông Trung ạ! Khác xa lắm cái chữ đồng chí mà ông và một số kẻ khác đang dùng.

Nói như vậy, thật sự cũng không phải tranh luận đúng sai gì với ông, chỉ để ông và tôi cùng nhìn lại, hiểu đúng về một vài ngôn từ Việt Nam. Dầu sao, ông vẫn có thể sử dụng lại cái chữ đồng đội mà ông nói, một khi ông làm được những điều vừa nói trên. Không cần ông phải lấy cắp một chiếc Mig 21 nào đó, vất một hai quả bom vào chỗ làm việc của Trung Ương đảng Việt cộng, chúng tôi cũng không cần ông chỉ bảo cách thức bay Mig 21 để được ông hướng dẫn bay ra phi trường Kép, hay Nội Bài, hoặc Tân Sơn Nhất hiện nay, để oanh kích những mục tiêu này; Ông không cần thiết phải làm những việc này ông Trung ạ! Chỉ hiểu đúng, và thực hiện đúng cái nghĩa đồng đội như tôi dẫn ở trên là đủ.

 photo camera.png Để kết thúc bài viết này, tôi lập lại một lần nữa, bài này dành cho những người trung thực, chỉ biết nói điều thực đọc nó, rất tiếc, ông đã đánh mất cái tính người này kể từ ngày ông phản bội chúng tôi, chạy theo Việt công, do đó ông không còn tư cách gì để đọc nó, dẫu ngay trên đầu bài viết này, đề tên của ông: Nguyễn Thành Trung, tuy nhiên như ông đã nói với Mark, cái tên này cũng không thực là của ông, mà là tên của một thanh thiếu niên nào đó, ông lấy giấy tờ hộ tịch của người này để len lỏi vào hàng ngũ chúng tôi, thực hiện việc riêng tư của ông.

Điều lẩn quẩn này ông cũng không xa lạ gì, vì chính cái tên Hồ Chí Minh mà hiện nay, ông và một số người khác đang ca tụng, sùng bái, thật sự là tên của một lão già Trung Hoa nào đó bị ho lao, chết vô thừa nhận trong một bệnh viện hẻo lánh bên Trung Hoa lục địa lâu lắm rồi, ai đấy đã lấy giấy tờ hộ tịch của lão này sử dụng lại, để làm việc gì đấy, để đến hôm nay, ông và một số kẻ khác tung hô, ngưỡng mộ cái tên Hồ Chí Minh Trung Hoa lục địa này! Cũng như các tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, Đinh Đức Thiện, Đỗ Mười, Tố Hữu, Phạm Hùng, Mai Thị Lựu, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Định, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng v. v.. tất cả đều là tên của một kẻ vô danh tiểu tốt nào đó, không hề có lai lịch, gốc gác hộ tịch trong Việt Nam, để hôm nay, có một số người nhắc nhớ, tưởng niệm, suy tôn. Điều tiếu lâm này, những người Không Quân trên toàn thế giới này lấy làm xa lạ, nực cười, trừ ông và các đồng chí của ông ra.

Một người Lính Không Quân VNCH.

http://khaiphong.org/showthread.php?6202-Con-c%26%237911%3Ba-phi-c%F4ng-n%E9m-bom-dinh-%26%23272%3B%26%237897%3Bc-L%26%237853%3Bp-t%26%237921%3B-s%E1t

 photo camera.png






 

*******************************************************************

 

 

 

 photo camera.png
 photo camera.png




      Lời Nguyễn Thành Trung, kẻ ném bom Dinh Độc Lập.


      <... thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.
      Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán...>

      Chính kẻ phản bội và đi theo VC đã cho mọi người thấy cách hành xử của VNCH bao dung và nhân đạo thế nào. Cũng chính vì tính nhân bản, đạo đức và bao dung này mà VC đã lợi dụng và chơi những trò đê hèn nên người quân tử thường bị tiểu nhân đánh lén, hãm hại là vậy.

      Xin xem bài phỏng vẫn sau đây: (Xin dính chính, HL không hoàn toàn đồng ý với tác giả bài viết. HL Chỉ tình cờ đọc được và thấy chính lời của một tội đồ đã tin tưởng VNCH sẽ không đối xử tàn nhẫn với vợ con ông ta nên đã cố tình chọn để vợ con ở lại chỗ cũ mà không tìm cách đưa vợ con đi lánh nạn trước khi ném bom dinh Độc Lập)< ...Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán...> (Lời kẻ phản bội).

      VC thì thế nào? Họ đã đối xử với các sĩ quan VNCH sau cuộc chiến ra sao? Tù đày, ăn uống thiếu thốn, lao động khổ sai, cùm chân, biệt giam... Ông nào đi tù VC về cũng chỉ còn da bọc xương. Đáng nói là một số đã chết rục trong tù vì thiếu thốn, bệnh tật. Nguyễn Thành Trung và vợ con ông ta thì sao??

      < ...Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà…>

      < …Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”...> (Lời kẻ phản bội)

      < ...họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo...> (Lời kẻ phản bội).

      < ... đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù...> (Lời kẻ phản bội).

      VC thì đã đối xử với các sĩ quan VNCH ra sao?
      Vậy mà giờ đây vẫn còn kẻ ca ngợi, bênh vực chính sách của Việt cộng!!!



      Bai viet:
      SỐ PHẬN CỦA MỘT KẺ PHẢN BỘI


      Photo:


      Mai Tú Ân


      VNCH đã đối xử rất nhân đạo với Đinh Khắc Chung tức Nguyễn Thành Trung ngay cả sau khi ông ta ném bom Dinh Độc Lập. Nhưng ông trời thì không nhân đạo như thế. Ông trời đã bắt Trung trả giá bằng luật nhân quả.

      Sau đây trả là phỏng vấn của Nguyễn Thành Trung sau khi ném bom Dinh Độc Lập:

      - "Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lãnh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng 'giải phóng' để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.

      Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hòa về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hóa với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ."

      http://www.chinhluanvn.com/…/ai-ta-nguyen-thanh-trung-vo-co…

      Luật Nhân Quả dành cho kẻ phản bội Nguyễn Thành Trung...

      Đã một năm rồi, Nguyễn Thành Danh, sinh năm 1977 con trai của phi công nổi tiếng Nguyễn Thành Trung đã treo cổ tự tử chết vì những lý do không ai biết. Thật đáng tiếc vì anh này cũng là một phi công, vừa lập gia đình và có một con nhỏ.

      "Lá vàng khóc hận lá xanh rời cành"

      Bầu trời trong xanh bỗng như sụp đổ. Đau lòng lắm khi tương lai của Nguyễn Thành Danh cũng sụp đổ. Nhưng tại sao anh lại bị ông Trời kêu tên khi tuổi đời còn quá trẻ.

      Than ôi. Chỉ vì cái tên anh đã gắn với cái tên mà không mấy người Việt Nam không biết. Anh chính là con trai của phi công Nguyễn Thành Trung. Chỉ vì cùng tên tuổi và cùng tình ruột thịt máu mủ với người cha độc ác trên mà ông Trời đã gọi tên? Người thì tin điều này, người thì không nhưng nếu nói về luật nhân quả thì trăm phần trăm đều tin rằng Nguyễn Thành Danh đang trả nợ cho cha anh, Nguyễn Thành Trung. Và việc anh treo cổ, tìm đến cái chết cũng chính là chịu không nổi áp lực khi nhìn thấy đống nợ cha mình để lại nó lớn đến nhường nào.

      Cha của anh, phi công Nguyễn Thành Trung, "Kẻ Phản Bội Thành Đạt" thì chẳng qua là một sĩ quan quân lực VNCH, phản chủ khi thấy con thuyền VNCH sắp đắm. Anh ta có thể lái máy bay bỏ trốn đi nhưng là một tay cơ hội sư tổ, anh ta đã lái máy bay ném bom vào Dinh Độc Lập để lấy điểm rồi bay sang đầu hàng quân miền Bắc. Cũng may mắn cho anh ta là quân đội miền Bắc đang cần một hướng dẫn viên lái máy bay A.37 ở phi trường Phan Rang đã bị chiếm. Rồi anh ta tham gia cuộc chơi của một kẻ phản bội tầm cỡ. Với tầm cỡ như thế thì anh ta xứng đáng được tặng thưởng nhưng không lẽ tặng thưởng anh hùng cho một tên phản chủ. Thế là các nhà tạo tác lịch sử Đảng vào cuộc và biến gia đình anh ta thành một thứ Cách Mạng (VC) ba đời. Còn anh ta thì thành một thứ tình báo chiến lược, cài cắm sang cả Mỹ...

      Nhưng rồi do một sự nhầm lẫn lịch sử, một sự trớ trêu của ông Tạo Hóa sáng nắng chiều mưa, hay một thời ngáo đá của cả họ nhà ông Trời mà Nguyễn Thành Trung đứng vững trước cú phản có một không hai đó và cứ phơi phới đi lên. Trong khi đáng ra anh ta phải chết vài lần, ở tù 1,000 năm và học tập cải tạo 10,000 năm thì mới xứng đáng với những gì anh ta đã làm. Trong thời gian hơn 40 năm thì anh ta đã được phong làm Anh Hùng, rồi lái máy bay chuyên cơ cho thủ tướng lúc đó là ông Phan Văn Khải, rồi tiếp đó là lái máy bay riêng cho tay tỷ phú Đoàn Nguyên Đức, Hoàng Anh Gia Lai mà chẳng hề gặp tai nạn nào như rơi máy bay chẳng hạn. Rồi cứ thế đi lên. Mấy chục năm nay ông ta đã sống sung sướng tột đỉnh như bay mãi trên bầu trời...

      Nhưng không lẽ không còn Trời, Đất hay đạo đức nữa hay sao mà ông ta cứ sống mãi trong một sự nghiệp không phải giành cho một kẻ phản bội được. Và đến tận bây giờ thì Luật pháp của trời đất đã được thực hiện qua cái chết của con trai ông ta. Và mới chỉ bắt đầu.

      Giờ đây thì Trời bắt ông ta phải sống để nhìn thấy tất cả những thứ ông gây dựng sụp đổ. Đầu tiên là đứa con trai yêu quí, và chắc chắn không phải tai họa cuối cùng đến với ông ta. Ông ta phải nhìn, ông phải sống để cho người dân chúng tôi nhìn thấy để biết rằng vẫn có thứ Luật còn cao hơn Luật Pháp. Đó là Luật Nhân Quả,

      Đời Cha ăn mặn đời con khát nước. Chính ông đã gây nên tội ác trong qúa khứ thì giờ đây ông phải sống trong sự phán xét, sự khinh bỉ của người dân chúng tôi cho đến muôn đời. Nếu ai đó còn có chút suy nghĩ tích cực về phi công Nguyễn Thành Trung thì hãy nghĩ thêm về những người VNCH đã điêu đứng như thế nào khi bị ông Trung này phản bội. Đó là luật Nhân Quả, rõ ràng và không thể trốn đi đâu được. Người viết bài này (MTA) không liên quan đến VNCH mà cũng đau nhói, uất ức khi cứ vẩn vơ cái suy nghĩ rằng, một quốc gia đang sống chết trong cơn sụp đổ cuối cùng mà lại bị một thành viên ưu tú trong đó đạp đổ cho chết luôn.

      Đừng trách ai đao kiếm vô tình khi mình súc sanh!

      Bởi sự phản bội là không thể tha thứ, muôn đời không tha thứ.
      Mai Tú Ân

      Hoang Lan






 

Điền Chủ Bị Đấu Tố và Chôn Sống Trong Thời Cải Cách Ruộng Đất

 



Điền Chủ Bị Đấu Tố và Chôn Sống
Trong Thời Cải Cách Ruộng Đất


Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.

Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng Tay, phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng Tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên lạc, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Trích một đoạn ngắn trong bài viết Mầu Tím Hoa Sim của thi sĩ Nguyễn Hữu Loan. http://www.gocnhinalan.com/blog-cua-alan-va-bca/hu-loan-bi-mu-tm-hoa-sim.html




 

Tội Ác Việt cộng