Chắc các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng tác giả nội dung bài viết này không được cái may mắn như các bạn đang sống trong thế giới tự do.
Tôi đang sống trong một nông trường tại đại lục Trung Quốc, nơi mà cha ông tôi đã sinh ra, rồi từ bỏ quê hương ra đi làm ăn sinh sống ở Việt Nam. Cha tôi lớn lên ở đất nước Việt Nam, lấy mẹ tôi là người Việt, và chỉ sinh được một mình tôi, nâng niu chiều quý như vàng như ngọc, nên mới đặt tên tôi là Ngọc Kim. Tôi chỉ được sống sung sướng có mười năm. Mẹ tôi mất khi tôi mới lên mười và từ đó là cảnh gà trống nuôi con.
Theo nguồn gốc, tôi là con gái người Hoa, nhưng tôi hoàn toàn không biết Hoa, không biết viết ngay cả tên mình bằng tiếng Hoa. Tôi theo học trường phổ thông thông Việt Nam và chẳng bao giờ nghĩ mình là người Trung Quốc. Sau khi học xong trung học, tôi xin vào làm ở một nhà máy Hải Phòng. Tôi sống chan hòa với các bạn Việt Nam, cùng tham gia tập tự vệ, và cùng được kết nạp vào Đoàn Thanh Niên.
Tôi sống thoải mái vui tươi trong tình nghĩa đồng bào, bè bạn. Nhưng cũng có lúc thoáng buồn khi nghĩ đến mẹ mất sớm, bố tôi đang là ông chủ hãng buôn xuất cảng nay hạ xuống làm một chân "bảo vệ" cho một cơ quan. Ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người ta dùng danh từ "bảo vệ" để chỉ những người làm công việc gác cổng, trông nom kho tàng, tài sản những cơ quan nhà nước. Cũng như người ta khéo đặt tên cho những anh, những chị nấu cơm trong quân đội hoặc cơ quan là "anh nuôi", "chị nuôi" để động viên những con người suốt ngày làm việc với nồi, niêu, bát đĩa.
Khi tôi đã lớn khôn, tôi hiểu rằng cha tôi có những nỗi buồn khó nói. Ông âm thầm chịu đựng một mình, sợ nói ra lại bị quy là thành phần bất mãn. Ông cũng không muốn mang lại nỗi buồn cho tôi nên cũng không bao giờ tâm sự cùng con gái.
Tôi đã sống hồn nhiên như những con chim non tung tăng bay nhảy trên những lùm cây xanh lá dưới ánh nắng mặt trời của những buổi sáng mùa xuân nắng đẹp. Tôi nào có biết bão tố của cuộc đời đang ập đến sau lưng.
Một hôm, tôi được Đảng Ủy nhà máy gọi lên văn phòng và tuyên bố rằng tôi là người Hoa, từ nay không được tham gia đội tự vệ, không được sinh hoạt Đoàn. Tôi cảm thấy như có ai đánh mạnh vào thái dương, choáng váng chừng như muốn quỵ xuống. Nhưng không, tôi vẫn đứng trơ trơ, không khóc và cũng không nói một lời. Tôi từ từ gỡ tấm huy hiệu đoàn viên đặt trên bàn trả lại cho Đảng ủy và lầm lũi ra về. Tôi thôi việc từ ngày đó vì biết rằng có đến làm cũng chẳng vui gì, và chắc gì người ta cho tôi làm nữa, vì cuộc chiến tranh ở biên giới Việt - Hoa đã nổ, và luồng gió độc bài Hoa đã dấy lên ở khắp mọi nơi.
Ngày xưa, khi hai nước cộng sản thân nhau, người ta đã đặt ra bài hái có những lời ca như sau: "Việt Nam, Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông; mối tình hữu nghị sáng như trời đông". Nhưng bây giờ họ giết nhau, một bài hái mới chống Trung Quốc đã được lưu hành rộng rãi: "Quân xâm lược Trung Quốc dã man, chúng chà đạp lên mảnh đất tiền phương. Máu đã đổ trên những vùng biên giới yêu thương...".
Cơn gió lốc hiểm độc của thù hận và chia rẽ dân tộc quét đi những mảnh lớn dân cư gốc Hoa trên bản đồ miền Bắc Việt Nam. Những người dân gốc Hoa thuộc tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn là những nạn nhân đầu tiên của trận bão đời đó. Cảnh chia ly mới đau khổ làm sao, vì bao đời nay những người Việt gốc Hoa sống bên nhau với tình cảm đồng bào, bè bạn. Phần đông họ lại có quan hệ máu mủ họ hàng với nhau, nên khi thấy những người Hoa dìu cha mẹ già, bồng bế con thơ, gồng gánh xách mang từ bỏ chốn chôn nhau cắt rốn, sinh sống đã bao đời để chạy loạn, nhào về với "Tổ quốc Trung Hoa". Họ tự ví như họ từ cái lồng tre chui vào cũi sắt, để lại những mãnh đất mà họ đã đổ mồ hôi cuốc cày tưới bón, nhìn những cây lúa đang trổ bông mà như muốn níu chân người trở lại. Họ đã khóc khi phải xa nhau và cảm thấy xóm làng trở nên trống trải, mất đi cái ấm áp nhộn nhịp vui tươi của những ngày mùa.
Chiến tranh biên giới tháng 2-1979 bùng nổ. Người ta đồn rằng quân Trung Quốc đã đánh bất ngờ và đã tiêu diệt sư đoàn 308 chủ lực quân oanh liệt của cộng sản Việt Nam. Người ta nói rằng quân Trung Quốc tàn sát dã man, giết cả đàn bà con trẻ và phá hết những gì là công trình xây dựng trong khu vực chúng chiếm đóng. Người ta còn cho biết thêm rằng không thể tin được những cán bộ gốc Hoa, vì nhiều người đã phản bội, làm gián điệp cho Trung Quốc, dẫn lối chỉ đường để tiêu diệt quân Việt Nam. Thế là lửa cháy lên, đầu rơi, máu đổ!
Làn sóng căm thù hừng hực dâng lên. Bộ đội, công an tỉnh Quảng Ninh, nơi chiến tranh đang bốc lửa, ập đến từng nhà, bắt trói những người Hoa còn lại ở Đông Triều mang đi. Những người chưa bị bắt chạy xuống Hải Phòng. Như tiếng bom nổ trong tim, người Hoa ở hai thành phố lớn nhất ở miền Bắc lau khô nước mắt, sau khi đã khóc suốt đêm khuya, đem đồ đạc ra chợ trời bán vội bán vàng, hối hả đóng thuyền chuẩn bị ra khơi "chạy loạn".
Có nhiều người hăng hái tuyên bố: "Tôi sẽ về với tổ quốc tôi [Trung Quốc], dù có phơi nắm xương tàn trên quê nội cũng cam lòng". Nhưng cũng có nhiều người chẳng muốn ra đi, họ nói: "Từ Việt Nam chạy về Trung Quốc có khác gì từ cái lồng tre chui vào cũi sắt", vì vậy, họ đã chọn con đường ra biển để tìm tự do. Tự do hay là chết, chứ không có lồng tre và cũi sắt. Nhưng than ôi, không phải ai cũng biết như vậy và làm được như vậy. Những người quá nghèo làm sao có đủ tiền chung đóng tàu to thuyền lớn ra biển cả. Tai hại hơn là họ nghe theo lời tuyên truyền lừa phỉnh của đại sứ quán Trung Quốc: Nào là về nước sẽ được ưu đãi, sẽ được phân phối công tác theo khả năng chuyên môn, sẽ được định cư theo yêu cầu và theo nguyện vọng của đồng bào.
Tin tức người Hoa về nước được tiếp đón ân cần ở các chiêu đãi sở vùng giáp giới Việt Nam, được phát quần áo mới, được học tập, ăn uống tốt v. v... đã khích lệ những người do dự chưa muốn rời bỏ đất nước Việt Nam trở về tổ quốc. Trong lúc đó, công an Việt Cộng lùng bắt những người Hoa tình nghi làm tay sai cho Trung Quốc, bỏ lỏng trật tự trị an, thả sức cho bọn lưu manh, mất dạy làm nhục người Hoa còn lại, những người tha thiết nhất đối với dân tộc Việt Nam thì lại là những người bị nhục nhiều nhất. Đó là những người như tôi, thực chất là một người Việt Nam nhưng trong giờ phút lịch sử ấy, hạn chế ở nông trường, không ai được ra làm ăn ở thành phố.
Có tí
nh cách nhục mạ như "quân Tàu ô", "thằng Tàu", "con Tàu", thằng bán táo dầm"... và những tên thiếu giáo dục, những kẻ có hiềm khích cũ với người Hoa tha hồ được phép lăng mạ, chửi rủa và khủng bố đánh đập.
Tôi đã ở lại Việt Nam vào những giờ phút kinh hoàng đó. Nhưng tôi vẫn chưa muốn ra đi. Tôi khóc nói với bố tôi: "Con không biết một câu tiếng Trung Quốc, con chẳng quen ai ở bên đó, con không muốn về...". Tôi không về thì bố tôi cũng không thể bỏ tôi mà đi được, và tôi cũng không nỡ lòng nào để bố tôi chịu đau khổ, nhục nhằn trước làn sóng dư luận độc ác, trước sức thúc ép của công an chính quyền, nên tôi đã quyết định rời khỏi đất nước Việt Nam, quê mẹ của tôi.
Hai bố con âm thầm mang hoa và lễ vật ra nghĩa trang Phi Liệt để giả từ mẹ tôi đang an nghỉ ngàn thu trong lòng đất Việt, và biết bao giờ mới lại được về đây thắp nén hương thơm cầu nguyện cho hương hồn mẹ phiêu diêu nơi cõi Phật. Tôi đã khóc nhiều và nói chuyện nhiều với mẹ tôi, với nấm mồ cỏ xanh bao bọc mà sao cảm tưởng như đang nằm gọn bên người như hồi còn bé dại, nói thầm thì rất lâu với hương hồn người đã khuất. Mặt trời đã ngả về tây, một làn gió nhẹ làm xào xạc lá cây mà tôi tưởn như mẹ tôi đã hiện về đứng đó. Đôi mắt người hiền dịu làm sao, người vuốt ve mái tóc của tôi, dặn tôi phải theo bố, trông nom giúp đỡ cho bố, như thế mới là con có hiếu. Tôi được bố tôi dìu ra khỏi nghĩa trang để trở lại Hải Phòng chuẩn bị cho cuộc hành trình không hẹn ngày trở lại.
Tôi đã ra đi trong nước mắt tiễn đưa của họ hàng bên mẹ, của những đứa bạn thân và nước mắt của chính mình. Tôi đã đến chào những gia đình Việt Nam quen thân, có người vừa khóc, vừa dúi cho một món tiền nho nhỏ, có người cho một cái phao, vài chiếc mù-xoa, và ai cũng cầu chúc cho bố con tôi "thượng lộ bình an", "thuận buồm xuôi gió".
Tôi quên làm sao được mẹ tôi, một người mẹ Việt Nam dịu hiền, nhân hậu, đã thương quý tôi hơn chính cả đời mình. Tôi quên sao được những khuôn mặt hiền lành, tình bạn chân thành của những người Việt Nam chân chính. Tôi quên sao được quê hương tôi, thành phố Hải Phòng rực màu hoa phượng, nơi tôi đã được sinh ra, khóc ba tiếng chào đời,chào cuộc đời Việt Nam đã nâng dắt tôi đi từng bước một để rồi đến lúc này đây, tôi bước xa hơn, xa nơi mẹ hiền còn nằm lại đó, xa bao bạn hữu từ thuở ấu thơ, xa mái trường xưa nơi tôi đã từng ngày cắp sách đến nghe thầy cô dạy cho cách sống, cách làm người. Xin giả từ Hải Phòng bến cảng, những bến Bính, Xi-măng, Thượng Lý, Lạc Viên, những cầu Rào, Cầu Tre, Hồng Bàng, Mê Linh, Quang Trung, Trại Câu, Cầu Đất... Những phố xá, những ngôi nhà, những mái trường hiền lành xinh xắn của quê tôi, con sông Cấm nối liền thành phố với biển khơi, đưa những con tàu của thế giới bên ngoài vào thăm đất Việt. Nhà Hát Lớn vẫn còn đây, nơi cách chiến sĩ của đội nam bắc Thành Tô đã anh dũng hy sinh trong những ngày đầu Hải Phòng kháng chiến. Đây là vườn trẻ với Cung Thiếu Nhi, nơi ngày xưa cha mẹ tôi đã đưa tôi đến cho tập cưởi trên những con ngựa bằng gỗ quay tít mù, vừa thích vừa sợ...
Tôi đã âm thầm đi khắp mọi nơi, âm thâm từ biệt từng con đường góc phố của quê hương thân yêu, tấc cả những gì ở đây, ở mảnh đất Việt Nam thân thương này sẽ mãi mãi là những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt ở trong tôi.
Tôi trở về đất nước Trung Hoa, quê nội của ông cha và lòng bồi hồi nhớ đến mấy câu thơ của người bạn thân đã về từ trước:
Tôi đã về đây Quảng Tây Hợp Phố,
Mảnh đất nghèo nhưng sao thấy thân thương.
Tôi đã đi trên những con đường,
Nơi cha ông tôi đã từng in dấu gót...
Trung Quốc cũng nghèo, chẳng hơn gì Việt Nam, nhưng một công dân chân chính của một đất nước thông thường không bao giờ chê đất nước của mình, cũng như những đứa con hiếu thảo không bao giờ chê cha mẹ nghèo, có chăng là họ tự chê mình chưa giỏi, chưa làm được gì để báo hiếu mẹ cha, xây dựng đất nước thân yêu giầu mạnh. Nếu họ có trách là trách những kẻ cầm quyền, nắm vận mệnh dân tộc trong tay đã lái con thuyền quốc gia lại đì ngược với trào lưu xã hội để mang lại những gian khổ nhục nhằn cho cả dân tộc.
Những đứa con tha hương từ đất Việt trở về, cũng có những tình cảm đáng quý đối với đất nước Trung Quốc. Họ cũng muốn đem tài năng và trí tuệ của mình làm rạng rỡ cho non sông, đất nước, nhưng hỡi ôi! Liệu làm được gì, khi người ta đem xếp tài năng vào một xó, gom toàn bộ những người Hoa về nước vào các nông trường xa xôi hẻo lánh, bắt những "thiên tài" phải làm quen với cuốc cày, đồng ruộng. Tất cả đều làm ruộng ở nông trường, đó là quốc sách của Trung Quốc dùng để đối phó với những trái tim yêu nước muốn làm một cái gì để đóng góp phần nhỏ bé của mình xây dựng một nước Trung Hoa hùng cường.
"Các anh bảo anh là người Hoa, cộng sản Việt Nam đuổi các anh đi; nhưng về nước, Trung Quốc lại bảo các anh là người An Nam, lại còn nghi trong các anh có những tên gián điệp cộng sản Việt Nam gài vào. Vì chính sách bảo vệ đất nước, xin các anh miễn kêu ca, hãy cắn răng mà vác cuốc ra đồng làm ruộng. Chúng tôi không thiếu nhân tài, nhiều nhân tài Trung Hoa chính gốc còn nằm co ở nhà chờ xin việc...".
Những âm hưởng đó cứ dội mãi vào thính giác của tôi. Đó là những lời bàn tán của những đứa con đã từng tuyên bố dù về nước có phải làm kiếp trâu ngựa, phơi nắm xương tàn trên quê nội cũng cam lòng, nhưng nay thì bất mãn thật sự với quốc sách "lồng tre cũi sắt" của Trung Quốc.
Có một trí thức trẻ từ Việt Nam về không làm được ruông nên được "trên" chiếu cố cho đi chăn trâu, và anh đã từ bỏ cuộc đời bằng cách tự sát, không đủ sức chịu đựng để thực hiện câu nói nổi tiếng cộng sản trẻ tuổi Nicolai Astropski, tác giả cuốn Thép Đã Tôi Thế Đấy. Câu đó như sau: "Hãy sống ngay cả khi cuộc sống đã trở nên không thể nào chịu đựng được nữa".
Đứng về phương diện nào đó thì câu nói có phần đáng được ngợi khen. không những hàng trăm ngàn người dân gốc Hoa từ Việt Nam trở về phải sống "cuộc sống không thể nào chịu đựng được nữa trong bức màn sắt", mà gần một tỷ dân Trung Quốc đã phải chịu đựng như vậy từ lâu rồi. Có điều là họ không chỉ có âm thầm chịu đựng mà còn âm thầm đấu tranh, phản kháng, đòi từng bước cải thiện dân sinh. Đó là ly do vì sao có Đặng Tiểu Bình và chính sách cải cách của cộng sản Trung Quốc, chứ không phải là "Trung Quốc có "sĩ, nông, công, thương" mà Việt Nam chỉ có "sĩ, nông và công". Trung Quốc có những thương nhân giỏi buôn bán thì bao giờ cũng linh động, không thể giáo điều được". Đó là những lý giải thật hàm hồ của một học giả Việt Nam cho rằng vì sao Trung Quốc có Đặng Tiểu Bình, có cải cách mà Việt Nam không có.
Tất cả những người bị đè nén, áp bức ở thế giới cộng sản đều phải tự vùng lên đấu tranh thì mới có được những thay đổi trong chính sách cai trị khắc nghiệt của cộng sản. Những cải cách bước đầu của cộng sản Trung Quốc hoặc cộng sản Liên Xô đều là do kết quả đấu tranh của chính người dân các nước đó mang lại. Với ý niệm đó, nên những người Hoa về nước cũng đã từng đấu tranh để đòi cải thiện đời sống cho chính họ.
Có những người là gốc giáo viên, là thợ in, thợ điện, nên nhất định không chịu làm ruộng và hàng ngày kéo lên bộ nông trường, cãi lý với lãnh đạo nông trường. Cuối cùng ban "lãnh đạo" cũng phải thu xếp cho một ít người làm theo ngành nghề cũ, nhưng chỉ hạn chế ở nông trường, không ai được ra làm ăn ở thành phố.
Nhưng không phải ai cũng gặp may được "trên" xếp việc theo ngành nghề. Tôi là một trong những số phận hẩm hiu đó. Vì vậy hai bố con tôi ngày ngày vác cuốc ra đồng, cuốc ruộng đến chảy máy tay mà năng suất vẫn chưa đạt chỉ tiêu như "trên" quy định. Làm vất vả mà ăn thì không có gì, nên cái tuổi mười chín đang đô thanh xuân của tôi héo khô như chiếc lá mùa thu vàng khô rụng xuống. Tôi ốm nặng vì không chịu được phong sương, vì thiếu dinh dưỡng, vì đau buồn, vì phẫn uất. Nhưng ốm mà nằm nhà thì càng chết vì sẽ bị vu cáo là "đấu tranh lảng công" và họ sẽ thực hiện lý luận kinh tế học của Mác - Lê "không làm không ăn", có nghĩa là họ sẽ cắt sổ gạo. Không có gạo ăn thì sẽ chết vì đói trước khi chết vì bệnh. Muốn được sống thì người bệnh phải cố mà lết lên lên y tá bộ nông trường, nhắm chặt mắt lại, mặc kệ cho họ nghe, họ sờ, họ mó. Và kệ thay họ muốn tiêm thứ thuốc gì cũng được, sau đó cố năn nỉ xin cho được giấy ốm để được nghỉ lao động. Có thế thì mới không bị cắt gạo và còn được hưởng chút tiền nghỉ ốm. Nhưng bọn cán bộ y tế cũng tinh quái lắm, chẳng cho ai được nghỉ lấy quá hai ngày, thường cứ cách một ngày là phải lên khám lại. Khi họ thấy ai còn nói to được, còn đỏ được mặt lên cãi nhau với họ khi họ lợi dụng làm càn sờ mó lung tung, không chịu cho giấy nghỉ ốm. Đối với những "con bệnh ngoan cố" đó họ trả lời như tát vào mặt: "Đồ lười biếng, không chịu lao động, giả vờ ốm để ăn công không của nhà nước mà không biết xấu hổ à?".
Những loại cán bộ y tế "lương y như từ mẫu" ở Trung Quốc và trong chế độ cộng sản Việt Nam sao mà giống nhau thế. Tôi không lạ gì những tên cán bộ y tế như vậy nên đành mang bệnh trong người, phải vác cuốc ra đồng để rồi có một hôm tôi bị nôn ra máu, ngã quỵ trong vũng nước bùn, chết đi trong một khoảng khắc sau được bà con tiếp cứu mới trở về lại với thế giới người sống. Từ đó cha tôi không cho tôi ra đồng, bắt phải ở nhà đi kiếm củi trên rừng và nuôi gà, trồng rau. Riêng cha tôi, ông cứ nghĩ rằng mình dù đã tuổi cao nhưng vốn dĩ là người tráng kiện vẫn có thể quen dần với lao động cấy cày. Nhưng mọi việc đã trái ngược với ước vọng của ông. Cha tôi bị ốm nặng và đã qua đời, để lại một mình tôi bơ vơ trên dương thế.
Sau khi cha mất, tôi cũng chẳng còn thiết sống, và dù có muốn sống cũng không biết lấy gì để sống. Hỏa thiêu và an táng cha tôi xong, tôi đóng chặt cửa buồng và toan quyên sinh bằng một sợi giây thừng đã chuẩn bị sẵn. Nhưng ở đâu cũng vậy, có lắm kẻ bất nhân thì cũng có nhiều người lương thiện. Những bà con tỵ nạn Việt Nam cùng nông trường đã đến cứu tôi, họ mang cho tôi đủ thứ và phân công nhau canh gác, không cho tôi có dịp quyên sinh nữa.
Có người khuyên tôi nên lấy chồng để có chỗ nương tựa, nhưng tôi lại rất sợ nói đến chuyện này. Vì bố tôi mới mất, trên đầu còn mảnh khăn tang, đạo làm con chưa làm tròn chữ hiếu, còn đâu dám nói tới chuyện xuất giá. Hơn nữa, chính sách hạn chế sinh đẻ thực hiện một cách thô bạo ở Trung Quốc làm tôi phát sợ. Có những cặp vợ chồng vì đã "trót" đẻ thêm một đứa con đã bị công an đến tận nhà bắt mang về bệnh viện "hoạn". Có người bị buộc phải phá thai và đã chết ngay trên bàn phẩu thuật của bệnh viện. Có những cặp vợ chồng chỉ vì không có con trai, đẻ được mỗi đứa con gái và bị cấm đẻ tiếp, sinh cãi nhau để rồi người vợ phải thắt cổ tự tử... Nhìn thấy mà ghê. Tôi chưa có gan đem cả cuộc đời còn trong trắng của mình nhận vào vũng bùn hôi tanh đó. Tôi phản kháng kịch liệt những ai dụ dỗ tôi lấy chồng, và xua đuổi tất cả những anh chàng "nhà quê mê gái" và những anh "lẩu pản" trẻ tuổi từ Hồng Kông lao về đại lục tìm vợ. Mọi người cho tôi là gàn gở, là tự cao. Có kẻ "ăn không được thì đạp đổ" đã tung dư luận bảo tôi bị bệnh tâm thần, điên dở.
Kể ra họ cũng có lý, bởi vì sau khi cha tôi mất, tôi hay cười nói bất thường, người lúc nào cũng như ngây như dại. Có lần soi gương, tôi thấy giật mình vì tôi cũng chẳng nhận ra tôi nữa. Tôi nhìn lại tấm ảnh chụp hồi ở Việt Nam mới hai năm trước đây so với tôi giờ này như hai người khác biệt. Đâu còn nữa cô Ngọc Kim duyên dáng đẹp tươi, mái tóc xanh dài, mượt mà óng ả, phủ xuống đôi má hồng mơn mởn của cái tuổi dậy thì mười bảy. Còn đâu nữa đôi mắt nhung đen thoáng vẻ mơ buồn nhưng rất nên thơ đã vô tình làm nhiều trái tim xao xuyến khi đón nhận một cái nhìn thật hồn nhiên của người con gái chưa biết gì đến hương vị của tình yêu. Giờ đây, đôi mắt ấy vẫn còn đẹp, vẫn có lực hấp dẫn đối với các chàng trai, nhưng sao nó buồn sâu thẳm, làm những con người cương nghị nhất cũng cảm thấy lòng dạ xót xa. Đôi má hồng mơn mởn của hai năm về trước nay được thay vào đôi má gầy xanh, lưỡng quyền nhô cao. Đôi môi đỏ thắm thuở nào nay được thay bằng một màu đen nhạt như tố cáo cảnh nghèo hèn không dinh dưỡng của một chứng bệnh hiểm nghèo: đau tim, thiếu máu...
Hỡi các chàng trai, xin hãy để tôi yên. Nếu có lấy tôi về cũng chỉ mang thêm gánh nặng, trong lúc chính các anh cũng phải còng lưng vì lao động nhọc nhằn như kiếp ngựa trâu ở những nông trường tăm tối. Nếu có thương nhau thì hãy để cho nhau tự do và giúp nhau bằng tình bạn.
Có một việc tôi không bao giờ sao lãng là việc thắp hương trên bàn thờ cha mẹ và ngồi im lặng chiêm ngưỡng chân dung người, nói chuyện thầm thì với hương hồn người đã khuất, trong lúc tôi có thể quên đi mọi sự kể cả việc ăn uống. Tôi cầu nguyện, mong cho cha mẹ được gặp lại nhau, sống vui như những ngày tôi còn thơ ấu ở Việt Nam, và ước gì bên kia thế giới của loài người có một thiên đường dành cho những linh hồn lương thiện như cha mẹ tôi. Nhiều đêm nằm mơ thấy cha mẹ tôi đến đón và tôi sung sướng gọi tên người, vùng dậy chạy theo... Nhưng đó chỉ là một giấc mơ, giấc mê sảng của người đang ốm nặng.
Tôi không muốn chết, nhưng cũng không còn muốn sống, vì thấy cuộc đời sao tăm tối thê lương. Trong những lúc tâm hồn yếu đuối, tôi đã được những bàn tay đôn hậu của đồng bào cùng cảnh ngộ nâng đỡ tôi lên. Họ cũng nghèo thôi nhưng tình nghĩa thật nhiều, họ cho tôi từng nắm gạo để nấu cháo. Có người dám hy sinh cả con gà nuôi để dành Tết mang giết thịt để bồi dưỡng cho tôi. Tôi đã sống bằng tình thương của đồng bào tỵ nạn mình như vậy cho đến lúc tôi có được những cứu cánh mới. Đồng bào đã tranh đấu thật quyết liệt với "cấp trên" và họ buộc phải chấp nhận cho tôi vào làm ở nhà máy của nông trường, một nhà máy do chủ người Hồng Kông bỏ tiền xây dựng. Tin có việc làm như một luồng gió mát làm dịu đi những vết bỏng của trái tim đang rỉ máu. Rồi sau đó là những lá thư từ thế giới tự do bay về như những con chim én bay về khi mùa đông giá lạnh đã qua đi nhường chỗ cho một mùa xuân mới. Những lá thư, rồi kèm theo là những món tiền nho nhỏ của bạn bè từ Canada, từ Mỹ, từ Anh Quốc gửi về khuyến khích tôi, giữ tôi dừng lại trước cái hố diệt vong của cuộc đời.
Nhựa sống của lứa tuổi hai mươi không dễ gì tàn lụi, héo khô. Nó như một thân cây mang trong mình những sinh lực vô biên đã hiên ngang trỗi lên làm nứt rạn những tảng băng cứng trong mùa đông giá lạnh, và khi gặp hơi ấm của mùa xuân, nó đã nẩy lộc, đâm cành, khai hoa, kết quả.
Nào tôi có ước gì hơn, chỉ mong sao có được việc làm hợp với khả năng và sức khỏe, để có thể tự nuôi sống mình, không phải phiền lụy đến ai. Và giờ đây tôi đã có việc làm, tôi bắt đầu thấy vui trong lao động. Tôi đã có tiền lương, lại thỉnh thoảng có tiền tiếp tế từ nước ngoài gởi về nên cuộc đời bắt đầu xanh tươi trở lại.
Tôi vui mừng đón những người thân từ nước ngoài về thăm, và được người nhà đưa đi chơi, du ngoạn những danh lam, thắng cảnh ở Trung Quốc. Tôi đã được đi thăm những dinh thự nguy nga của cung đình triều vua ở Bắc Kinh, đứng trên Vạn Lý Trường Thành để phóng tầm mắt ra tận nơi xa xăm, hình dung những trận đánh của quân Ngoại Mông hung hãn xung phong bằng ngựa chiến để liên tưởng tới những danh tướng quân Nguyên Mông, những Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt và con cháu hắn đã tàn phá Trung Quốc rộng lớn, cưỡi trên lưng con sư tử Trung Quốc ngái ngủ nên bị kẻ thù chinh phục. Nhưng thật kỳ lạ thay, sao những tướng sĩ của quân Nguyên Mông lại thua đau khi vấp phải sức kháng cự của một dân tộc anh hùng dòng Lạc Việt!
Tôi cũng được đi thăm Quế Lâm, một trong những nơi nổi tiếng sơn thủy hữu tình củad đất nước Trung Quốc. Ta có thể ngồi trên thuyền máy đi dọc tren dòng sông dài hàng trăm cây số và cảnh núi non hai bên quả như thiên thai trong trần thế. Đật nước Trung Quốc cũng như đất nước Việt Nam đều rất đẹp, thiên nhiên đã ưu đãi hai nước Việt - Trung, cộng với công trình sáng tạo của dân tộc nên đã có được những thắng cảnh đẹp, vừa nên thơ vừa hùng tráng.
Một trong những nơi để lại trong tôi những kỷ niệm đó là chuyến đi thăm thắng cảnh huyện Phú Sơn, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Đó là một hòn đảo bây giờ đã gắn liền với đại lục bằng một con đường dài lấp eo biển. Cảnh ở đây sao so được với Quế Lâm, với Bắc Kinh, nhưng nó lại có những nét đặc thù mà không nơi nào có được. Nơi đây có một miếu nhỏ quanh năm hương khói, đó là một hiện tượng mới lạ trong cái xã hội cộng sản vô thần. Ở đây cũng có một đoạn trường thành giả, dường như đó là biểu tượng của nhà cầm quyền Trung Quốc nhắc nhở mọi người là phía trước mặt, bên kia Biển Đông, hạm đội của quân Đài Loan có thể tấn công vào lục địa bất cứ lúc nào. Một cảnh thiên nhiên được du khách chú ý nhiều là một tảng đá khổng lồ, to nặng hàng trăm tấn nhưng chỉ gắn liền với mặt đất bằng một trụ nhỏ, trông thật chênh vênh, tưởng như chỉ cần dùng sức của mấy người đẩy mạnh là lăn tòm xuống biển. Ấy vậy mà hải quân Trung Quốc đã dùng tàu chiến móc dây cáp định kéo tảng đá xuống biển mà không sao kéo được. Người dân địa phương trọng vọng tảng đá này như một vị thần linh, đã ngang nhiên đứng giữa trời như thách thức bạo quyền. Trên tảng đá có khắc bốn chữ Hán lớn "Nam Thiên Nhất Trụ". Không ai biết những chữ này do ai khắc, và từ bao giờ, nhưng chữ rất đẹp, ăn rất sâu vào tảng đá, không ai có thể cạo đi được. Đó là một kỳ quan nho nhỏ mà nhiều du khách từ khắp nơi tò mò muốn biết. Nhưng điều gây sự hấp dẫn cho những du khách từ khắp nơi đến đây còn vì một lý do khác: Đứng trên đảo này vào những ngày trời đẹp, có thể nhình thấy ở xa xa một vệt dài mờ mờ huyền ảo, đó là đảo Đài Loan, mảnh đất của tự do.
Đứng trên bờ biển Phú Sơn, tỉnh Phúc Kiến, dùng ống nhòm của anh họ tôi ở Canada về cho mượn, tôi đã nhìn rõ hơn đảo Đài Loan, niềm ước vọng của nhiều người dân đại lục Trung Quốc. Chính ở nơi đây, trên hòn đảo Phú Sơn này đã xảy ra trận tập kích bất ngờ của quân Đài Loan đổ bộ vào đại lục, tiêu diệt quân canh phòng bờ biển của Trung Quốc và đã mang theo toàn bộ dân cư của đảo này về Đài Loan. Đó là một hòn đảo mà Trung Quốc không bao giờ quên. Và người dân lục địa cũng không bao giờ quên. Họ mong ước có thêm nhiều trận tập kích như vậy nữa để tạo điều kiện làm rạn nứt những bức tường thép đang ngăn cách họ với thế giới tự do, để có một ngày nào đó họ có thể phối hợp với lực lượng tự do dân chủ ở nước ngoài đập tan gông xiềng đang xiết chặt trên đầu cổ họ.
>Tôi đang sống trong một nông trường tại đại lục Trung Quốc, nơi mà cha ông tôi đã sinh ra, rồi từ bỏ quê hương ra đi làm ăn sinh sống ở Việt Nam. Cha tôi lớn lên ở đất nước Việt Nam, lấy mẹ tôi là người Việt, và chỉ sinh được một mình tôi, nâng niu chiều quý như vàng như ngọc, nên mới đặt tên tôi là Ngọc Kim. Tôi chỉ được sống sung sướng có mười năm. Mẹ tôi mất khi tôi mới lên mười và từ đó là cảnh gà trống nuôi con.
Theo nguồn gốc, tôi là con gái người Hoa, nhưng tôi hoàn toàn không biết Hoa, không biết viết ngay cả tên mình bằng tiếng Hoa. Tôi theo học trường phổ thông thông Việt Nam và chẳng bao giờ nghĩ mình là người Trung Quốc. Sau khi học xong trung học, tôi xin vào làm ở một nhà máy Hải Phòng. Tôi sống chan hòa với các bạn Việt Nam, cùng tham gia tập tự vệ, và cùng được kết nạp vào Đoàn Thanh Niên.
Tôi sống thoải mái vui tươi trong tình nghĩa đồng bào, bè bạn. Nhưng cũng có lúc thoáng buồn khi nghĩ đến mẹ mất sớm, bố tôi đang là ông chủ hãng buôn xuất cảng nay hạ xuống làm một chân "bảo vệ" cho một cơ quan. Ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người ta dùng danh từ "bảo vệ" để chỉ những người làm công việc gác cổng, trông nom kho tàng, tài sản những cơ quan nhà nước. Cũng như người ta khéo đặt tên cho những anh, những chị nấu cơm trong quân đội hoặc cơ quan là "anh nuôi", "chị nuôi" để động viên những con người suốt ngày làm việc với nồi, niêu, bát đĩa.
Khi tôi đã lớn khôn, tôi hiểu rằng cha tôi có những nỗi buồn khó nói. Ông âm thầm chịu đựng một mình, sợ nói ra lại bị quy là thành phần bất mãn. Ông cũng không muốn mang lại nỗi buồn cho tôi nên cũng không bao giờ tâm sự cùng con gái.
Tôi đã sống hồn nhiên như những con chim non tung tăng bay nhảy trên những lùm cây xanh lá dưới ánh nắng mặt trời của những buổi sáng mùa xuân nắng đẹp. Tôi nào có biết bão tố của cuộc đời đang ập đến sau lưng.
Một hôm, tôi được Đảng Ủy nhà máy gọi lên văn phòng và tuyên bố rằng tôi là người Hoa, từ nay không được tham gia đội tự vệ, không được sinh hoạt Đoàn. Tôi cảm thấy như có ai đánh mạnh vào thái dương, choáng váng chừng như muốn quỵ xuống. Nhưng không, tôi vẫn đứng trơ trơ, không khóc và cũng không nói một lời. Tôi từ từ gỡ tấm huy hiệu đoàn viên đặt trên bàn trả lại cho Đảng ủy và lầm lũi ra về. Tôi thôi việc từ ngày đó vì biết rằng có đến làm cũng chẳng vui gì, và chắc gì người ta cho tôi làm nữa, vì cuộc chiến tranh ở biên giới Việt - Hoa đã nổ, và luồng gió độc bài Hoa đã dấy lên ở khắp mọi nơi.
Ngày xưa, khi hai nước cộng sản thân nhau, người ta đã đặt ra bài hái có những lời ca như sau: "Việt Nam, Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông; mối tình hữu nghị sáng như trời đông". Nhưng bây giờ họ giết nhau, một bài hái mới chống Trung Quốc đã được lưu hành rộng rãi: "Quân xâm lược Trung Quốc dã man, chúng chà đạp lên mảnh đất tiền phương. Máu đã đổ trên những vùng biên giới yêu thương...".
Cơn gió lốc hiểm độc của thù hận và chia rẽ dân tộc quét đi những mảnh lớn dân cư gốc Hoa trên bản đồ miền Bắc Việt Nam. Những người dân gốc Hoa thuộc tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn là những nạn nhân đầu tiên của trận bão đời đó. Cảnh chia ly mới đau khổ làm sao, vì bao đời nay những người Việt gốc Hoa sống bên nhau với tình cảm đồng bào, bè bạn. Phần đông họ lại có quan hệ máu mủ họ hàng với nhau, nên khi thấy những người Hoa dìu cha mẹ già, bồng bế con thơ, gồng gánh xách mang từ bỏ chốn chôn nhau cắt rốn, sinh sống đã bao đời để chạy loạn, nhào về với "Tổ quốc Trung Hoa". Họ tự ví như họ từ cái lồng tre chui vào cũi sắt, để lại những mãnh đất mà họ đã đổ mồ hôi cuốc cày tưới bón, nhìn những cây lúa đang trổ bông mà như muốn níu chân người trở lại. Họ đã khóc khi phải xa nhau và cảm thấy xóm làng trở nên trống trải, mất đi cái ấm áp nhộn nhịp vui tươi của những ngày mùa.
Chiến tranh biên giới tháng 2-1979 bùng nổ. Người ta đồn rằng quân Trung Quốc đã đánh bất ngờ và đã tiêu diệt sư đoàn 308 chủ lực quân oanh liệt của cộng sản Việt Nam. Người ta nói rằng quân Trung Quốc tàn sát dã man, giết cả đàn bà con trẻ và phá hết những gì là công trình xây dựng trong khu vực chúng chiếm đóng. Người ta còn cho biết thêm rằng không thể tin được những cán bộ gốc Hoa, vì nhiều người đã phản bội, làm gián điệp cho Trung Quốc, dẫn lối chỉ đường để tiêu diệt quân Việt Nam. Thế là lửa cháy lên, đầu rơi, máu đổ!
Làn sóng căm thù hừng hực dâng lên. Bộ đội, công an tỉnh Quảng Ninh, nơi chiến tranh đang bốc lửa, ập đến từng nhà, bắt trói những người Hoa còn lại ở Đông Triều mang đi. Những người chưa bị bắt chạy xuống Hải Phòng. Như tiếng bom nổ trong tim, người Hoa ở hai thành phố lớn nhất ở miền Bắc lau khô nước mắt, sau khi đã khóc suốt đêm khuya, đem đồ đạc ra chợ trời bán vội bán vàng, hối hả đóng thuyền chuẩn bị ra khơi "chạy loạn".
Có nhiều người hăng hái tuyên bố: "Tôi sẽ về với tổ quốc tôi [Trung Quốc], dù có phơi nắm xương tàn trên quê nội cũng cam lòng". Nhưng cũng có nhiều người chẳng muốn ra đi, họ nói: "Từ Việt Nam chạy về Trung Quốc có khác gì từ cái lồng tre chui vào cũi sắt", vì vậy, họ đã chọn con đường ra biển để tìm tự do. Tự do hay là chết, chứ không có lồng tre và cũi sắt. Nhưng than ôi, không phải ai cũng biết như vậy và làm được như vậy. Những người quá nghèo làm sao có đủ tiền chung đóng tàu to thuyền lớn ra biển cả. Tai hại hơn là họ nghe theo lời tuyên truyền lừa phỉnh của đại sứ quán Trung Quốc: Nào là về nước sẽ được ưu đãi, sẽ được phân phối công tác theo khả năng chuyên môn, sẽ được định cư theo yêu cầu và theo nguyện vọng của đồng bào.
Tin tức người Hoa về nước được tiếp đón ân cần ở các chiêu đãi sở vùng giáp giới Việt Nam, được phát quần áo mới, được học tập, ăn uống tốt v. v... đã khích lệ những người do dự chưa muốn rời bỏ đất nước Việt Nam trở về tổ quốc. Trong lúc đó, công an Việt Cộng lùng bắt những người Hoa tình nghi làm tay sai cho Trung Quốc, bỏ lỏng trật tự trị an, thả sức cho bọn lưu manh, mất dạy làm nhục người Hoa còn lại, những người tha thiết nhất đối với dân tộc Việt Nam thì lại là những người bị nhục nhiều nhất. Đó là những người như tôi, thực chất là một người Việt Nam nhưng trong giờ phút lịch sử ấy, hạn chế ở nông trường, không ai được ra làm ăn ở thành phố.
Có tí
nh cách nhục mạ như "quân Tàu ô", "thằng Tàu", "con Tàu", thằng bán táo dầm"... và những tên thiếu giáo dục, những kẻ có hiềm khích cũ với người Hoa tha hồ được phép lăng mạ, chửi rủa và khủng bố đánh đập.
Tôi đã ở lại Việt Nam vào những giờ phút kinh hoàng đó. Nhưng tôi vẫn chưa muốn ra đi. Tôi khóc nói với bố tôi: "Con không biết một câu tiếng Trung Quốc, con chẳng quen ai ở bên đó, con không muốn về...". Tôi không về thì bố tôi cũng không thể bỏ tôi mà đi được, và tôi cũng không nỡ lòng nào để bố tôi chịu đau khổ, nhục nhằn trước làn sóng dư luận độc ác, trước sức thúc ép của công an chính quyền, nên tôi đã quyết định rời khỏi đất nước Việt Nam, quê mẹ của tôi.
Hai bố con âm thầm mang hoa và lễ vật ra nghĩa trang Phi Liệt để giả từ mẹ tôi đang an nghỉ ngàn thu trong lòng đất Việt, và biết bao giờ mới lại được về đây thắp nén hương thơm cầu nguyện cho hương hồn mẹ phiêu diêu nơi cõi Phật. Tôi đã khóc nhiều và nói chuyện nhiều với mẹ tôi, với nấm mồ cỏ xanh bao bọc mà sao cảm tưởng như đang nằm gọn bên người như hồi còn bé dại, nói thầm thì rất lâu với hương hồn người đã khuất. Mặt trời đã ngả về tây, một làn gió nhẹ làm xào xạc lá cây mà tôi tưởn như mẹ tôi đã hiện về đứng đó. Đôi mắt người hiền dịu làm sao, người vuốt ve mái tóc của tôi, dặn tôi phải theo bố, trông nom giúp đỡ cho bố, như thế mới là con có hiếu. Tôi được bố tôi dìu ra khỏi nghĩa trang để trở lại Hải Phòng chuẩn bị cho cuộc hành trình không hẹn ngày trở lại.
Tôi đã ra đi trong nước mắt tiễn đưa của họ hàng bên mẹ, của những đứa bạn thân và nước mắt của chính mình. Tôi đã đến chào những gia đình Việt Nam quen thân, có người vừa khóc, vừa dúi cho một món tiền nho nhỏ, có người cho một cái phao, vài chiếc mù-xoa, và ai cũng cầu chúc cho bố con tôi "thượng lộ bình an", "thuận buồm xuôi gió".
Tôi quên làm sao được mẹ tôi, một người mẹ Việt Nam dịu hiền, nhân hậu, đã thương quý tôi hơn chính cả đời mình. Tôi quên sao được những khuôn mặt hiền lành, tình bạn chân thành của những người Việt Nam chân chính. Tôi quên sao được quê hương tôi, thành phố Hải Phòng rực màu hoa phượng, nơi tôi đã được sinh ra, khóc ba tiếng chào đời,chào cuộc đời Việt Nam đã nâng dắt tôi đi từng bước một để rồi đến lúc này đây, tôi bước xa hơn, xa nơi mẹ hiền còn nằm lại đó, xa bao bạn hữu từ thuở ấu thơ, xa mái trường xưa nơi tôi đã từng ngày cắp sách đến nghe thầy cô dạy cho cách sống, cách làm người. Xin giả từ Hải Phòng bến cảng, những bến Bính, Xi-măng, Thượng Lý, Lạc Viên, những cầu Rào, Cầu Tre, Hồng Bàng, Mê Linh, Quang Trung, Trại Câu, Cầu Đất... Những phố xá, những ngôi nhà, những mái trường hiền lành xinh xắn của quê tôi, con sông Cấm nối liền thành phố với biển khơi, đưa những con tàu của thế giới bên ngoài vào thăm đất Việt. Nhà Hát Lớn vẫn còn đây, nơi cách chiến sĩ của đội nam bắc Thành Tô đã anh dũng hy sinh trong những ngày đầu Hải Phòng kháng chiến. Đây là vườn trẻ với Cung Thiếu Nhi, nơi ngày xưa cha mẹ tôi đã đưa tôi đến cho tập cưởi trên những con ngựa bằng gỗ quay tít mù, vừa thích vừa sợ...
Tôi đã âm thầm đi khắp mọi nơi, âm thâm từ biệt từng con đường góc phố của quê hương thân yêu, tấc cả những gì ở đây, ở mảnh đất Việt Nam thân thương này sẽ mãi mãi là những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt ở trong tôi.
Tôi trở về đất nước Trung Hoa, quê nội của ông cha và lòng bồi hồi nhớ đến mấy câu thơ của người bạn thân đã về từ trước:
Tôi đã về đây Quảng Tây Hợp Phố,
Mảnh đất nghèo nhưng sao thấy thân thương.
Tôi đã đi trên những con đường,
Nơi cha ông tôi đã từng in dấu gót...
Trung Quốc cũng nghèo, chẳng hơn gì Việt Nam, nhưng một công dân chân chính của một đất nước thông thường không bao giờ chê đất nước của mình, cũng như những đứa con hiếu thảo không bao giờ chê cha mẹ nghèo, có chăng là họ tự chê mình chưa giỏi, chưa làm được gì để báo hiếu mẹ cha, xây dựng đất nước thân yêu giầu mạnh. Nếu họ có trách là trách những kẻ cầm quyền, nắm vận mệnh dân tộc trong tay đã lái con thuyền quốc gia lại đì ngược với trào lưu xã hội để mang lại những gian khổ nhục nhằn cho cả dân tộc.
Những đứa con tha hương từ đất Việt trở về, cũng có những tình cảm đáng quý đối với đất nước Trung Quốc. Họ cũng muốn đem tài năng và trí tuệ của mình làm rạng rỡ cho non sông, đất nước, nhưng hỡi ôi! Liệu làm được gì, khi người ta đem xếp tài năng vào một xó, gom toàn bộ những người Hoa về nước vào các nông trường xa xôi hẻo lánh, bắt những "thiên tài" phải làm quen với cuốc cày, đồng ruộng. Tất cả đều làm ruộng ở nông trường, đó là quốc sách của Trung Quốc dùng để đối phó với những trái tim yêu nước muốn làm một cái gì để đóng góp phần nhỏ bé của mình xây dựng một nước Trung Hoa hùng cường.
"Các anh bảo anh là người Hoa, cộng sản Việt Nam đuổi các anh đi; nhưng về nước, Trung Quốc lại bảo các anh là người An Nam, lại còn nghi trong các anh có những tên gián điệp cộng sản Việt Nam gài vào. Vì chính sách bảo vệ đất nước, xin các anh miễn kêu ca, hãy cắn răng mà vác cuốc ra đồng làm ruộng. Chúng tôi không thiếu nhân tài, nhiều nhân tài Trung Hoa chính gốc còn nằm co ở nhà chờ xin việc...".
Những âm hưởng đó cứ dội mãi vào thính giác của tôi. Đó là những lời bàn tán của những đứa con đã từng tuyên bố dù về nước có phải làm kiếp trâu ngựa, phơi nắm xương tàn trên quê nội cũng cam lòng, nhưng nay thì bất mãn thật sự với quốc sách "lồng tre cũi sắt" của Trung Quốc.
Có một trí thức trẻ từ Việt Nam về không làm được ruông nên được "trên" chiếu cố cho đi chăn trâu, và anh đã từ bỏ cuộc đời bằng cách tự sát, không đủ sức chịu đựng để thực hiện câu nói nổi tiếng cộng sản trẻ tuổi Nicolai Astropski, tác giả cuốn Thép Đã Tôi Thế Đấy. Câu đó như sau: "Hãy sống ngay cả khi cuộc sống đã trở nên không thể nào chịu đựng được nữa".
Đứng về phương diện nào đó thì câu nói có phần đáng được ngợi khen. không những hàng trăm ngàn người dân gốc Hoa từ Việt Nam trở về phải sống "cuộc sống không thể nào chịu đựng được nữa trong bức màn sắt", mà gần một tỷ dân Trung Quốc đã phải chịu đựng như vậy từ lâu rồi. Có điều là họ không chỉ có âm thầm chịu đựng mà còn âm thầm đấu tranh, phản kháng, đòi từng bước cải thiện dân sinh. Đó là ly do vì sao có Đặng Tiểu Bình và chính sách cải cách của cộng sản Trung Quốc, chứ không phải là "Trung Quốc có "sĩ, nông, công, thương" mà Việt Nam chỉ có "sĩ, nông và công". Trung Quốc có những thương nhân giỏi buôn bán thì bao giờ cũng linh động, không thể giáo điều được". Đó là những lý giải thật hàm hồ của một học giả Việt Nam cho rằng vì sao Trung Quốc có Đặng Tiểu Bình, có cải cách mà Việt Nam không có.
Tất cả những người bị đè nén, áp bức ở thế giới cộng sản đều phải tự vùng lên đấu tranh thì mới có được những thay đổi trong chính sách cai trị khắc nghiệt của cộng sản. Những cải cách bước đầu của cộng sản Trung Quốc hoặc cộng sản Liên Xô đều là do kết quả đấu tranh của chính người dân các nước đó mang lại. Với ý niệm đó, nên những người Hoa về nước cũng đã từng đấu tranh để đòi cải thiện đời sống cho chính họ.
Có những người là gốc giáo viên, là thợ in, thợ điện, nên nhất định không chịu làm ruộng và hàng ngày kéo lên bộ nông trường, cãi lý với lãnh đạo nông trường. Cuối cùng ban "lãnh đạo" cũng phải thu xếp cho một ít người làm theo ngành nghề cũ, nhưng chỉ hạn chế ở nông trường, không ai được ra làm ăn ở thành phố.
Nhưng không phải ai cũng gặp may được "trên" xếp việc theo ngành nghề. Tôi là một trong những số phận hẩm hiu đó. Vì vậy hai bố con tôi ngày ngày vác cuốc ra đồng, cuốc ruộng đến chảy máy tay mà năng suất vẫn chưa đạt chỉ tiêu như "trên" quy định. Làm vất vả mà ăn thì không có gì, nên cái tuổi mười chín đang đô thanh xuân của tôi héo khô như chiếc lá mùa thu vàng khô rụng xuống. Tôi ốm nặng vì không chịu được phong sương, vì thiếu dinh dưỡng, vì đau buồn, vì phẫn uất. Nhưng ốm mà nằm nhà thì càng chết vì sẽ bị vu cáo là "đấu tranh lảng công" và họ sẽ thực hiện lý luận kinh tế học của Mác - Lê "không làm không ăn", có nghĩa là họ sẽ cắt sổ gạo. Không có gạo ăn thì sẽ chết vì đói trước khi chết vì bệnh. Muốn được sống thì người bệnh phải cố mà lết lên lên y tá bộ nông trường, nhắm chặt mắt lại, mặc kệ cho họ nghe, họ sờ, họ mó. Và kệ thay họ muốn tiêm thứ thuốc gì cũng được, sau đó cố năn nỉ xin cho được giấy ốm để được nghỉ lao động. Có thế thì mới không bị cắt gạo và còn được hưởng chút tiền nghỉ ốm. Nhưng bọn cán bộ y tế cũng tinh quái lắm, chẳng cho ai được nghỉ lấy quá hai ngày, thường cứ cách một ngày là phải lên khám lại. Khi họ thấy ai còn nói to được, còn đỏ được mặt lên cãi nhau với họ khi họ lợi dụng làm càn sờ mó lung tung, không chịu cho giấy nghỉ ốm. Đối với những "con bệnh ngoan cố" đó họ trả lời như tát vào mặt: "Đồ lười biếng, không chịu lao động, giả vờ ốm để ăn công không của nhà nước mà không biết xấu hổ à?".
Những loại cán bộ y tế "lương y như từ mẫu" ở Trung Quốc và trong chế độ cộng sản Việt Nam sao mà giống nhau thế. Tôi không lạ gì những tên cán bộ y tế như vậy nên đành mang bệnh trong người, phải vác cuốc ra đồng để rồi có một hôm tôi bị nôn ra máu, ngã quỵ trong vũng nước bùn, chết đi trong một khoảng khắc sau được bà con tiếp cứu mới trở về lại với thế giới người sống. Từ đó cha tôi không cho tôi ra đồng, bắt phải ở nhà đi kiếm củi trên rừng và nuôi gà, trồng rau. Riêng cha tôi, ông cứ nghĩ rằng mình dù đã tuổi cao nhưng vốn dĩ là người tráng kiện vẫn có thể quen dần với lao động cấy cày. Nhưng mọi việc đã trái ngược với ước vọng của ông. Cha tôi bị ốm nặng và đã qua đời, để lại một mình tôi bơ vơ trên dương thế.
Sau khi cha mất, tôi cũng chẳng còn thiết sống, và dù có muốn sống cũng không biết lấy gì để sống. Hỏa thiêu và an táng cha tôi xong, tôi đóng chặt cửa buồng và toan quyên sinh bằng một sợi giây thừng đã chuẩn bị sẵn. Nhưng ở đâu cũng vậy, có lắm kẻ bất nhân thì cũng có nhiều người lương thiện. Những bà con tỵ nạn Việt Nam cùng nông trường đã đến cứu tôi, họ mang cho tôi đủ thứ và phân công nhau canh gác, không cho tôi có dịp quyên sinh nữa.
Có người khuyên tôi nên lấy chồng để có chỗ nương tựa, nhưng tôi lại rất sợ nói đến chuyện này. Vì bố tôi mới mất, trên đầu còn mảnh khăn tang, đạo làm con chưa làm tròn chữ hiếu, còn đâu dám nói tới chuyện xuất giá. Hơn nữa, chính sách hạn chế sinh đẻ thực hiện một cách thô bạo ở Trung Quốc làm tôi phát sợ. Có những cặp vợ chồng vì đã "trót" đẻ thêm một đứa con đã bị công an đến tận nhà bắt mang về bệnh viện "hoạn". Có người bị buộc phải phá thai và đã chết ngay trên bàn phẩu thuật của bệnh viện. Có những cặp vợ chồng chỉ vì không có con trai, đẻ được mỗi đứa con gái và bị cấm đẻ tiếp, sinh cãi nhau để rồi người vợ phải thắt cổ tự tử... Nhìn thấy mà ghê. Tôi chưa có gan đem cả cuộc đời còn trong trắng của mình nhận vào vũng bùn hôi tanh đó. Tôi phản kháng kịch liệt những ai dụ dỗ tôi lấy chồng, và xua đuổi tất cả những anh chàng "nhà quê mê gái" và những anh "lẩu pản" trẻ tuổi từ Hồng Kông lao về đại lục tìm vợ. Mọi người cho tôi là gàn gở, là tự cao. Có kẻ "ăn không được thì đạp đổ" đã tung dư luận bảo tôi bị bệnh tâm thần, điên dở.
Kể ra họ cũng có lý, bởi vì sau khi cha tôi mất, tôi hay cười nói bất thường, người lúc nào cũng như ngây như dại. Có lần soi gương, tôi thấy giật mình vì tôi cũng chẳng nhận ra tôi nữa. Tôi nhìn lại tấm ảnh chụp hồi ở Việt Nam mới hai năm trước đây so với tôi giờ này như hai người khác biệt. Đâu còn nữa cô Ngọc Kim duyên dáng đẹp tươi, mái tóc xanh dài, mượt mà óng ả, phủ xuống đôi má hồng mơn mởn của cái tuổi dậy thì mười bảy. Còn đâu nữa đôi mắt nhung đen thoáng vẻ mơ buồn nhưng rất nên thơ đã vô tình làm nhiều trái tim xao xuyến khi đón nhận một cái nhìn thật hồn nhiên của người con gái chưa biết gì đến hương vị của tình yêu. Giờ đây, đôi mắt ấy vẫn còn đẹp, vẫn có lực hấp dẫn đối với các chàng trai, nhưng sao nó buồn sâu thẳm, làm những con người cương nghị nhất cũng cảm thấy lòng dạ xót xa. Đôi má hồng mơn mởn của hai năm về trước nay được thay vào đôi má gầy xanh, lưỡng quyền nhô cao. Đôi môi đỏ thắm thuở nào nay được thay bằng một màu đen nhạt như tố cáo cảnh nghèo hèn không dinh dưỡng của một chứng bệnh hiểm nghèo: đau tim, thiếu máu...
Hỡi các chàng trai, xin hãy để tôi yên. Nếu có lấy tôi về cũng chỉ mang thêm gánh nặng, trong lúc chính các anh cũng phải còng lưng vì lao động nhọc nhằn như kiếp ngựa trâu ở những nông trường tăm tối. Nếu có thương nhau thì hãy để cho nhau tự do và giúp nhau bằng tình bạn.
Có một việc tôi không bao giờ sao lãng là việc thắp hương trên bàn thờ cha mẹ và ngồi im lặng chiêm ngưỡng chân dung người, nói chuyện thầm thì với hương hồn người đã khuất, trong lúc tôi có thể quên đi mọi sự kể cả việc ăn uống. Tôi cầu nguyện, mong cho cha mẹ được gặp lại nhau, sống vui như những ngày tôi còn thơ ấu ở Việt Nam, và ước gì bên kia thế giới của loài người có một thiên đường dành cho những linh hồn lương thiện như cha mẹ tôi. Nhiều đêm nằm mơ thấy cha mẹ tôi đến đón và tôi sung sướng gọi tên người, vùng dậy chạy theo... Nhưng đó chỉ là một giấc mơ, giấc mê sảng của người đang ốm nặng.
Tôi không muốn chết, nhưng cũng không còn muốn sống, vì thấy cuộc đời sao tăm tối thê lương. Trong những lúc tâm hồn yếu đuối, tôi đã được những bàn tay đôn hậu của đồng bào cùng cảnh ngộ nâng đỡ tôi lên. Họ cũng nghèo thôi nhưng tình nghĩa thật nhiều, họ cho tôi từng nắm gạo để nấu cháo. Có người dám hy sinh cả con gà nuôi để dành Tết mang giết thịt để bồi dưỡng cho tôi. Tôi đã sống bằng tình thương của đồng bào tỵ nạn mình như vậy cho đến lúc tôi có được những cứu cánh mới. Đồng bào đã tranh đấu thật quyết liệt với "cấp trên" và họ buộc phải chấp nhận cho tôi vào làm ở nhà máy của nông trường, một nhà máy do chủ người Hồng Kông bỏ tiền xây dựng. Tin có việc làm như một luồng gió mát làm dịu đi những vết bỏng của trái tim đang rỉ máu. Rồi sau đó là những lá thư từ thế giới tự do bay về như những con chim én bay về khi mùa đông giá lạnh đã qua đi nhường chỗ cho một mùa xuân mới. Những lá thư, rồi kèm theo là những món tiền nho nhỏ của bạn bè từ Canada, từ Mỹ, từ Anh Quốc gửi về khuyến khích tôi, giữ tôi dừng lại trước cái hố diệt vong của cuộc đời.
Nhựa sống của lứa tuổi hai mươi không dễ gì tàn lụi, héo khô. Nó như một thân cây mang trong mình những sinh lực vô biên đã hiên ngang trỗi lên làm nứt rạn những tảng băng cứng trong mùa đông giá lạnh, và khi gặp hơi ấm của mùa xuân, nó đã nẩy lộc, đâm cành, khai hoa, kết quả.
Nào tôi có ước gì hơn, chỉ mong sao có được việc làm hợp với khả năng và sức khỏe, để có thể tự nuôi sống mình, không phải phiền lụy đến ai. Và giờ đây tôi đã có việc làm, tôi bắt đầu thấy vui trong lao động. Tôi đã có tiền lương, lại thỉnh thoảng có tiền tiếp tế từ nước ngoài gởi về nên cuộc đời bắt đầu xanh tươi trở lại.
Tôi vui mừng đón những người thân từ nước ngoài về thăm, và được người nhà đưa đi chơi, du ngoạn những danh lam, thắng cảnh ở Trung Quốc. Tôi đã được đi thăm những dinh thự nguy nga của cung đình triều vua ở Bắc Kinh, đứng trên Vạn Lý Trường Thành để phóng tầm mắt ra tận nơi xa xăm, hình dung những trận đánh của quân Ngoại Mông hung hãn xung phong bằng ngựa chiến để liên tưởng tới những danh tướng quân Nguyên Mông, những Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt và con cháu hắn đã tàn phá Trung Quốc rộng lớn, cưỡi trên lưng con sư tử Trung Quốc ngái ngủ nên bị kẻ thù chinh phục. Nhưng thật kỳ lạ thay, sao những tướng sĩ của quân Nguyên Mông lại thua đau khi vấp phải sức kháng cự của một dân tộc anh hùng dòng Lạc Việt!
Tôi cũng được đi thăm Quế Lâm, một trong những nơi nổi tiếng sơn thủy hữu tình củad đất nước Trung Quốc. Ta có thể ngồi trên thuyền máy đi dọc tren dòng sông dài hàng trăm cây số và cảnh núi non hai bên quả như thiên thai trong trần thế. Đật nước Trung Quốc cũng như đất nước Việt Nam đều rất đẹp, thiên nhiên đã ưu đãi hai nước Việt - Trung, cộng với công trình sáng tạo của dân tộc nên đã có được những thắng cảnh đẹp, vừa nên thơ vừa hùng tráng.
Một trong những nơi để lại trong tôi những kỷ niệm đó là chuyến đi thăm thắng cảnh huyện Phú Sơn, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Đó là một hòn đảo bây giờ đã gắn liền với đại lục bằng một con đường dài lấp eo biển. Cảnh ở đây sao so được với Quế Lâm, với Bắc Kinh, nhưng nó lại có những nét đặc thù mà không nơi nào có được. Nơi đây có một miếu nhỏ quanh năm hương khói, đó là một hiện tượng mới lạ trong cái xã hội cộng sản vô thần. Ở đây cũng có một đoạn trường thành giả, dường như đó là biểu tượng của nhà cầm quyền Trung Quốc nhắc nhở mọi người là phía trước mặt, bên kia Biển Đông, hạm đội của quân Đài Loan có thể tấn công vào lục địa bất cứ lúc nào. Một cảnh thiên nhiên được du khách chú ý nhiều là một tảng đá khổng lồ, to nặng hàng trăm tấn nhưng chỉ gắn liền với mặt đất bằng một trụ nhỏ, trông thật chênh vênh, tưởng như chỉ cần dùng sức của mấy người đẩy mạnh là lăn tòm xuống biển. Ấy vậy mà hải quân Trung Quốc đã dùng tàu chiến móc dây cáp định kéo tảng đá xuống biển mà không sao kéo được. Người dân địa phương trọng vọng tảng đá này như một vị thần linh, đã ngang nhiên đứng giữa trời như thách thức bạo quyền. Trên tảng đá có khắc bốn chữ Hán lớn "Nam Thiên Nhất Trụ". Không ai biết những chữ này do ai khắc, và từ bao giờ, nhưng chữ rất đẹp, ăn rất sâu vào tảng đá, không ai có thể cạo đi được. Đó là một kỳ quan nho nhỏ mà nhiều du khách từ khắp nơi tò mò muốn biết. Nhưng điều gây sự hấp dẫn cho những du khách từ khắp nơi đến đây còn vì một lý do khác: Đứng trên đảo này vào những ngày trời đẹp, có thể nhình thấy ở xa xa một vệt dài mờ mờ huyền ảo, đó là đảo Đài Loan, mảnh đất của tự do.
Đứng trên bờ biển Phú Sơn, tỉnh Phúc Kiến, dùng ống nhòm của anh họ tôi ở Canada về cho mượn, tôi đã nhìn rõ hơn đảo Đài Loan, niềm ước vọng của nhiều người dân đại lục Trung Quốc. Chính ở nơi đây, trên hòn đảo Phú Sơn này đã xảy ra trận tập kích bất ngờ của quân Đài Loan đổ bộ vào đại lục, tiêu diệt quân canh phòng bờ biển của Trung Quốc và đã mang theo toàn bộ dân cư của đảo này về Đài Loan. Đó là một hòn đảo mà Trung Quốc không bao giờ quên. Và người dân lục địa cũng không bao giờ quên. Họ mong ước có thêm nhiều trận tập kích như vậy nữa để tạo điều kiện làm rạn nứt những bức tường thép đang ngăn cách họ với thế giới tự do, để có một ngày nào đó họ có thể phối hợp với lực lượng tự do dân chủ ở nước ngoài đập tan gông xiềng đang xiết chặt trên đầu cổ họ.
No comments:
Post a Comment